Kỳ 3: Cháy hết mình vì học sinh thân yêu
PNTĐ-Dành trọn tâm huyết vào từng bài giảng, trăn trở, sáng tạo ra các cách dạy học mới… Những thầy cô giáo bình dị ấy vẫn đang âm thầm cháy hết mình vì nghề và tình yêu học trò.
Dành trọn tâm huyết vào từng bài giảng, trăn trở, sáng tạo ra các cách dạy học mới, cải tiến cách ra đề thi mở để học trò được tự do bộc lộ cảm xúc… Những thầy cô giáo bình dị ấy vẫn đang âm thầm cháy hết mình vì nghề và tình yêu học trò. Nhưng, bù lại, họ được các em gọi tên là “người thầy đi truyền cảm hứng”.
Thắp lên tình yêu lịch sử dân tộc
Nguyễn Văn Định, cựu học sinh lớp 12A năm học 2015-2016, từng rất ngại học Lịch sử vì nghĩ môn này “khó, khô”. Nhưng, năm lớp 12, sau khi được học với cô giáo dạy Lịch sử Lưu Thị Kim Anh mà Định thay đổi hẳn. Định thấy yêu môn Lịch sử, từ đó càng thêm yêu đất nước Việt Nam. Ít tháng sau, Định đăng ký dự HS giỏi môn Lịch sử thành phố và đoạt giải Nhất. Từ TTGDTX Nguyễn Văn Tố, hiện Định đã bước vào giảng đường khoa Lịch sử, trường ĐH Quốc gia Hà Nội. “Cô Kim Anh giống như một nghệ sĩ kể chuyện Lịch sử, không chỉ bằng kiến thức mà bằng cả tâm hồn”-Định nhớ lại. Nhận cảm hứng từ cô giáo Kim Anh, Định mong muốn cũng sẽ trở thành giáo viên Lịch sử để được cháy hết mình trên bục giảng như thế. Định nói, đây là quyết định sáng suốt nhất của mình.
Cô giáo Lưu Thị Kim Anh, hiện là giáo viên Lịch sử của khối THPT và lớp khiếm thị tại Trung tâm GDTX Nguyễn Văn Tố. Cô đã tốt nghiệp loại Giỏi khoa Sư phạm Lịch sử, Đại học Giáo Dục, ĐH Quốc gia Hà Nội năm 2005. Nhận thấy, giữa Lịch sử và Văn học có nhiều điểm tương đồng, năm 2013 cô lại đăng ký học thêm văn bằng 2 môn Ngữ văn tại trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Kim Anh mong muốn có thể đưa thêm chất Văn vào dạy môn Lịch sử, và ngược lại, đưa ánh sáng Lịch sử vào soi chiếu các tác phẩm Văn học, giúp học sinh hiểu bài sâu sắc hơn. Năm 2015, Kim Anh đã tốt nghiệp ngành sư phạm Ngữ văn loại giỏi. Hiện tại Kim Anh lại chuẩn bị theo học chương trình thạc sĩ Lịch sử tại ĐH Quốc gia Hà Nội.
Cô giáo Kim Anh say sưa trên bục giảng |
Đã hơn 10 năm giảng dạy Lịch sử, từng bài từng bài trong SGK đã thuộc lòng, nhưng trước mỗi lần lên lớp, Kim Anh luôn tự hỏi mình dạy như vậy đã hay chưa và liệu có thể làm tốt hơn không? Vẫn một bài ấy, Kim Anh dạy cho nhiều lớp khác nhưng cách giảng không bao giờ giống nhau. Với học sinh còn yếu, cô chọn cách cô đọng kiến thức, kẻ, vẽ sơ đồ để HS dễ hiểu, dễ nhớ nhất. Nhưng, với lớp có nhiều HS khá giỏi, cô mở rộng bài giảng, đưa thêm nhiều kiến thức ngoài SGK.
Chỉ cần qua một tiết dạy Lịch sử có thể thấy Kim Anh đầu tư và cầu kỳ trong bài giảng đến thế nào. Dạy bài Lịch sử “Tây Âu thời hậu kỳ Trung đại”, ngoài kiến thức Lịch sử, Kim Anh sử dụng cả các tác phẩm hội họa của Lona Dvinci; tác phẩm “Đôn Kihôtê - Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra” của Miguel De Cervante… vì văn học, nghệ thuật cũng có khả năng phản ánh xã hội đương thời. Dạy mục “Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài”, Kim Anh đọc cho HS nghe những câu thơ: “Đất nước đẹp vô cùng/Nhưng Bác phải ra đi/Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác”… trong bài “Người đi tìm hình của nước” của nhà thơ Chế Lan Viên.
Nhiều nhân vật, sự kiện chỉ thoáng qua trong SGK Lịch sử nhưng Kim Anh vẫn dừng lại, tự tìm thêm các tư liệu về danh nhân, sự kiện đó để kể thêm với HS. Trong bài “Văn hóa Việt Nam trong các thể kỷ 16-18” có nhắc tới tên nhà thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khi giảng đến đây, Kim Anh giới thiệu thêm về Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là nhà tiên tri tài ba về vận mệnh đất nước. Bằng cách đó, kiến thức Lịch sử được HS thẩm thấu tới tận cùng.
Kim Anh có nguyên tắc hàng ngày phải xem hết chương trình thời sự buổi tối, nghe các chương trình bình luận sự kiện trong nước và thế giới; tối nào cũng dành tối thiểu 30 phút nghe những video bài giảng của các giáo sư sử học đầu ngành ở Việt Nam. Với học sinh, Kim Anh dặn: “Các em hãy rèn thói quen tự tìm hiểu Lịch sử dân tộc qua tên phố, tên địa danh, tên trường học của mình… Thường xuyên làm được như vậy, chỉ sau một thời gian, hiểu biết của các em sẽ mở rộng rất nhiều. Các em sẽ thấy từng mảnh đất, con đường mình đi qua đều là sự kết tinh bề dày lịch sử”.
Tiên phong đổi mới vì học trò
Tiến sĩ Trịnh Thị Lan, SN 1976 hiện là Tổ trưởng Tổ Ngữ văn của trường THCS-THPT Nguyễn Tất Thành, Giảng viên Tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn, khoa Ngữ văn, ĐH Sư phạm Hà Nội. Tiến sỹ Trịnh Lan từng là HS giỏi văn quốc gia, được tuyển thẳng vào khoa ngữ văn ĐH Sư phạm Hà Nội.
Cô giáo Trịnh Lan (thứ 3 từ trái sang) và học trò |
Một giảng viên ĐH Sư phạm xuống dạy tại trường phổ thông, vừa là mong muốn cá nhân của cô Lan lại vừa là nhu cầu công việc. Bằng cách đó, cô Lan có thể đón đầu và thực hành những phương pháp dạy học mới, đem tới cho HS phổ thông những giờ học Ngữ văn hiệu quả, thú vị. Ngược lại, Trịnh Lan cũng có cơ hội thấu hiểu các học sinh đang cần gì, muốn gì ở người thầy để rồi lại trăn trở điều chỉnh bài giảng ở trường ĐH cho các giáo viên Ngữ văn tương lai.
Trước kia, khi dạy về văn học dân gian, giáo viên thường tách riêng từng thể loại, từng văn bản, từng nội dung… và dạy theo đúng trình tự SGK. Cô Lan nhận ra dạy như vậy chưa đạt hiệu quả. Văn học dân gian Việt Nam rất phong phú, nhưng dung lượng, cách sắp xếp các bài dường như chưa thực sự hợp lý. Trong hoàn cảnh chưa có chương trình và SGK mới, cô Lan cùng Tổ Ngữ văn đã xây dựng chương trình nhà trường, dạy theo các chủ đề, dựa trên “nhu cầu” của học sinh và tạo điều kiện tối đa để HS chủ động tham gia vào bài học.
Chẳng hạn chủ đề “Vẻ đẹp và sức sống của văn học dân gian Việt Nam” cho phép học sinh tự tìm kiếm tài liệu, tự trình bày hiểu biết và giới thiệu các văn bản văn học dân gian mà các em yêu thích. Rất nhiều phương pháp dạy học tích cực như “học thông qua dạy”, “dạy học dự án”; Kĩ thuật “Đóng vai nhân vật”, “Ghế nóng tác giả” cho phép học sinh được trực tiếp trải nghiệm tác giả, tác phẩm, kĩ thuật “Khăn trải bàn”, “Mảnh ghép” giúp học sinh quan sát và rút kinh nghiệm cho nhau đều được cô Lan tích cực áp dụng trong quá trình dạy học. Nhưng, không giống như với các môn khoa học khác như Toán học, Vật lý, HS có nhu cầu được học văn học qua việc cảm thụ, thưởng thức giống như một môn nghệ thuật. Nếu thầy giáo không đủ nhiệt huyết, tinh tế lẫn khả năng, thì việc áp dụng phương pháp mới sẽ làm hỏng ngôn ngữ và văn học.
Vì thế, để có một bài giảng chỉ 45 phút, cô Lan phải bỏ nhiều công nghiên cứu, cân nhắc thật kỹ đổi mới ra sao và thế nào là hợp lý. Dạy về tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, nếu giáo viên cho HS xem cả bộ phim trước khi giảng bài, sẽ làm HS nhìn tác phẩm ngôn từ bằng con mắt điện ảnh. Vì thế, chỉ khi HS đã đọc và thực sự thẩm thấu tác phẩm, cô mới cho các em tiếp cận bộ phim; Trịnh Lan cũng tinh tế chọn và cắt từng đoạn hình ảnh trong bộ phim Số đỏ, nhằm mục đích khơi gợi về các chi tiết được nhắc tới trong trích đoạn “Hạnh phúc một tang gia” in trong SGK giúp HS tóm tắt tác phẩm nhanh hơn. Dạy về thơ, cô Lan đưa thêm công nghệ thông tin vào bài giảng, bắt đầu bằng giọng ngâm truyền cảm bài thơ đó để đánh thức sự rung động tâm hồn của HS trước khi tiếp tục cùng các em đi tìm vẻ đẹp của ca từ.
Vì giảng dạy ở hai trường nên cũng bận gấp đôi, nhưng bất cứ lúc nào, người ta cũng có thể thấy cô Lan gắn liền với máy tính, sách vở để soạn bài. Trong nhiều tiết giảng ở trường phổ thông, cô Lan đưa sinh viên khoa Ngữ văn - ĐH Sư phạm Hà Nội tới dự, với mong muốn các thầy cô giáo tương lai sớm tiếp cận những giờ giảng chân thực, hiểu triết lý giáo dục mới, hun đúc cho các em lòng yêu nghề… Đó là cách đổi mới giáo dục từ gốc mà cô mong muốn được góp sức thực hiện.
Cô Lan còn luôn sáng tạo cách ra đề mở, gợi cho các HS suy nghĩ sâu sắc về những điều, những tình huống trong cuộc sống. Từ một trích đoạn trong bài thơ “Tiếng chổi tre” của nhà thơ Tố Hữu, cô yêu cầu HS trình bày suy nghĩ về một giá trị sống mà HS thấm thía nhất. Để rồi, HS Nguyễn Đức Toàn, lớp 10D1 đã nói về lối sống đẹp, sẵn sàng cống hiến vì cộng đồng; HS Hoàng Thị Hồng Ngọc, lớp 10D1 lại bày tỏ sự biết ơn với những người lao động bình dị, HS Vũ Phương Nhi, lớp 10D4 lại suy nghĩ về mối quan hệ giữa “rác” và “hoa”, giữa vay và trả trong cuộc đời… Với những chủ đề học tập xuyên suốt, ví dụ “Sức sống của văn học dân gian”, việc kiểm tra đánh giá vượt ra khỏi khuôn khổ của một bài kiểm tra trên giấy, cô Lan để cho các nhóm HS trả bài bằng thuyết trình, diễn xướng hát dân ca, hát đối, đọc vè…
Kỳ cuối: Tri ân thầy cô giáo
Trung Thu