Một ngày đến chơi nhà người Tày
PNTĐ-Một điểm rất quan trọng trước khi vào nhà người Tày đó là rửa tay. Bất cứ ai đến nhà, chủ nhà luôn mời khách rửa tay tại chum nước để ở dưới...
Khách đến nhà thường được chủ nhà mời rửa tay trước khi lên nhà |
Người Tày xuất hiện ở Việt Nam từ khá sớm, có thể từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Họ phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và có truyền thống làm ruộng nước từ lâu đời, vì vậy mà văn hóa nông nghiệp mang bản sắc người Tày hình thành một chỉnh thể rõ ràng. Trong đó, khi khách đến thăm ngôi nhà người Tày sẽ được khám phá rất nhiều điều độc đáo.
Vào nhà người Tày
Từ lâu, người Tày đã cư trú tập trung thành bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền thượng du. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.
Người Tày rất hiếu khách. Trước cổng làng của người Tày luôn có một cái chuông gỗ và một hàng rào tre. Khi khách đến thường phải dùng gậy hoặc đòn đánh vào chuông để báo với người dân làng có khách đến chơi. Sau đó sẽ có người làng ra dỡ hàng rào tre và mời khách vào làng. Người Tày ở nhà sàn, lợp mái cọ, làng thường có một trục đường chính là nhà được xây cất hai bên ven đường.
Muốn lên nhà sàn thì phải đi lên cầu thang. Đối với người Tày, cầu thang có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong văn hóa, cầu thang là nơi kết nối mặt đất với nhà, kết nối thiên nhiên với con người. Vì vậy người Tày không bao giờ để vật cản trên cầu thang. Đặc biệt, phụ nữ không được ngồi ở cầu thang, nam giới cũng cần hạn chế tối đa. Do là nền văn hóa nông nghiệp, nên người Tày quan niệm người đàn ông là trụ cột gia đình, là người làm kinh tế chủ yếu còn người phụ nữ lo quán xuyến gia đình, chăm sóc con cái. Vậy nên người đàn ông luôn luôn bước lên cầu thang trước người phụ nữ.
Cầu thang từ mặt đất lên nhà sàn của người Tày là một nơi rất linh thiêng, phụ nữ thường không được ngồi ở đây |
Một điểm rất quan trọng trước khi vào nhà người Tày đó là rửa tay. Bất cứ ai đến nhà, chủ nhà luôn mời khách rửa tay tại chum nước để ở dưới với ý gột rửa những điều đen đủi ra khỏi tay, tạo sự vui vẻ cho cuộc gặp gỡ.
Nhà của người Tày thường được chia ra làm các loại nhà cụ thể như nhà rượu, nhà chè, nhà bánh, nhà thuốc Nam. Những nhà này sẽ chuyên làm một sản phẩm nhất định. Tuy không cần phải bày bán nhưng ai cũng biết trong nhà có sản phẩm gì. Ngoài ra, các sản phẩm cơ bản như ngô, thóc, sắn đều được bảo quản bằng cách treo khô, đóng bồ…để sử dụng cho cả mùa vụ.
Người Tày thường ít nuôi gia súc dưới sàn nhà, họ thường nuôi ở một nơi khác. Dưới sàn nhà thường để nông cụ hoặc để các bình rượu ngâm, sàn nhà người Tày còn có thể là nơi làm chè, làm bánh chè lam… một số đồ ẩm thực đặc trưng.
Bếp lửa luôn ấm
Khi bước vào nhà của người Tày, đàn ông được ngồi ở khu trên còn phụ nữ thì ngồi ở khu dưới và tuyệt đối không ai được ngồi quay lưng vào bàn thờ tổ tiên và bếp lửa. Trong nhà người Tày có một sàn dài cạnh cửa sổ, đó là chỗ nghỉ trưa của các thành viên trong gia đình, khách có thể ngồi hẳn lên trên nhưng tuyệt đối không ngồi nửa trên, nửa dưới.
Bếp lửa giữ vị trí vô cùng quan trọng trong văn hóa người Tày. Cho dù bất cứ ngày nào, giờ nào bếp lửa cũng phải luôn cháy hoặc ấm, điều này tượng trưng cho hạnh phúc gia đình luôn nồng nàn, ấm áp. Việc trông giữ bếp lửa thuộc về người phụ nữ, đây cũng được cho là một thước đo đánh giá sự chỉn chu và khả năng quán xuyến, giữ lửa hạnh phúc gia đình của người phụ nữ.
Khách đến nhà thường được chủ nhà mời uống rượu hoặc nước lá, cho dù ít hay nhiều gia chủ cũng muốn khách uống hết ít nhất một chén. Gia chủ và khách cùng nâng ly và hô “kỉn” theo tiếng Tày, nghĩa là “uống hết”. Sau đó cả hai úp chén trên lòng bàn tay thể hiệnđã uống cạn chén, sau đó mới bắt đầu vào câu chuyện.
Khách đến nhà người Tày thường được chủ nhà mời uống rượu hoặc nước lá, cho dù ít hay nhiều gia chủ cũng muốn khách uống hết ít nhất một chén. |
Theo phong tục truyền thống, người Tày không kết hôn với người cùng dòng họ. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân và cũng quy định một vợ, một chồng. Thanh niên có quyền tự do tìm hiểu nhau nhưng muốn kết hôn phải được sự đồng ý của hai bên gia đình. Đám cưới người Tày khá chi tiết, có các nghi thức như lễ dạm, ăn hỏi, lễ sêu Tết, lễ cưới, lễ đưa dâu…thể hiện nhiều nét độc đáo đậm đà bản sắc. Khi cưới xong, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở thì sẽ về ở hẳn nhà chồng, từ đây người phụ nữ chính thức làm con dâu và là người trông giữ bếp lửa gia đình nhà chồng.
Trang phục của người Tày khá đặc trưng. Nam giới có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân có cổ đứng. Nam giới cũng có áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu gối. Đối với phụ nữ thường có quấn khăn kín đầu và đeo quả cầu may mắn trên thắt lưng, màu đặc trưng của trang phục người Tày là màu đen. Người Tày có nghề thủ công phong phú, cả nam và nữ đều biết như đan cót, bồ, rổ, đó… ngoài ra, nam giới hầu hết đều biết làm nông cụ và xây cất nhà, điều này cũng thể hiện sự trưởng thành và có thể lập gia đình riêng của nam giới người Tày.
Nghe điệu đàn tính
Đàn tính là loại nhạc cụ đặc trưng của người Tày, họ thường biểu diễn đàn tính hát then vào rất nhiều dịp trong năm như ngày Tết, ngày Rằm, ngày đầy tháng con, ngày được mùa vụ…Đàn tính như một bảo vật trong mỗi gia đình, hầu hết cả nam nữ người Tày đều biết chơi loại nhạc cụ này.
Đàn tính thường có 3 dây và 3 cung, tùy vào bài hát mà người nghệ sĩ sẽ chọn cung gẩy cho phù hợp. Bụng đàn được làm bằng quả bầu, một loại quả rất linh thiêng đối với người Tày. Họ thường không bao giờ đốt, đập hay vứt bỏ quả bầu, cũng không ai dám ăn trộm quả bầu hay đàn tính vì sẽ bị đen đủi. Người Tày có thể gẩy đàn tính mọi lúc mọi nơi, gẩy theo đề nghị của khách. Họ có thể đeo đàn đi làm, đi chơi hội… và coi đàn tính như một người bạn chân chính của mình.
Ngoài ra, người Tày còn có một nền văn nghệ cổ truyền rất phong phú gồm đủ loại thơ ca, truyện cổ tích, múa nhạc… ngoài hát Then các điệu hát lượn, hát đám cưới… Người Tày rất phổ biến hát lượn như hát ví ở dưới xuôi. Hai bên nam nữ hát đối đáp về mọi khía cạnh của đời sống xã hội, nhất là về tình yêu đôi lứa nam nữ. Có nhiều điệu lượn như lượn Slương, lượn Then, lượn Nàng Hai... Người Tày còn có các điệu hát Then, gọi là Văn ca, được ngâm hát trong đám tang, gọi là hát hội trong các hội Lồng tồng, gọi là Cỏ lẩu trong hát đám cưới.
Nguyễn Văn Công