Làng cổ nghìn năm tuổi
PNTĐ-Tương và miến dong là thức ăn quen thuộc của người dân Việt Nam, ấy vậy nghề làm hai thức này lại cùng một làng cổ đó là Cự Đà, nằm bên bờ sông Nhuệ.
Tương và miến dong là thức ăn quen thuộc của người dân Việt Nam, ấy vậy nghề làm hai thức này lại cùng một làng cổ đó là Cự Đà, nằm bên bờ sông Nhuệ, thuộc xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, TP Hà Nội.
Nơi lưu giữ văn hóa kiến trúc độc đáo
Làng cổ Cự Đà nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 15km về phía Tây Nam, làng nằm ven sông Nhuệ, con sông hiền hòa cung cấp nước tưới tiêu cho các huyện phía Nam Hà Nội. Người xưa có câu Nhất cận thị Nhị cận giang, ý muốn nói sự sầm uất dân cư thường tập trung ở các đô thị và ven sông bởi sự thuận lợi giao thông. Cự Đà chính là một điển hình của “Nhị cận giang”, được coi là một trung tâm buôn bán sầm uất thời phong kiến. Đến đầu thế kỷ 20, người Pháp cho xây dựng nhiều biệt thự tại Cự Đà đan xen với các ngôi nhà cổ thuần Việt, đến nay làng vẫn còn giữ được hơn 20 ngôi nhà kiểu Pháp và khoảng 50 ngôi nhà kiến trúc Việt cổ có tuổi đời khoảng trên dưới 100 năm.
Ngôi nhà của ông Đinh Văn Lai được làm bằng gỗ vàng tâm đã trên 100 năm tuổi |
Tới tham quan Cự Đà, cổng làng chính là ấn tượng đầu tiên. Cổng làng lớn, có một cổng chính và hai cổng phụ, trên là mái cong vút có niên đại khoảng 200 năm. Bên cạnh cổng là tượng cóc đá, đây là một linh vật trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, ý muốn thể hiện sự mong muốn mưa thuận gió hòa của thiên nhiên, thông qua cóc người dân có thể gửi tâm nguyện lên ông trời. Thờ cóc ở cổng làng khiến ta dễ dàng liên tưởng tới câu chuyện dân gian “Cóc kiện trời” để cầu mưa cho dân chúng.
Dọc đường làng là hình xương cá với các nếp nhà san sát nhau. Các ngõ của làng rất nhỏ nhưng mà đều có tên như Khê Tang, Đồng Nhân Cát, Khúc Thùy. Các con ngõ thường dốc thoải ra để tránh mưa lụt tràn vào nhà, nhiều con ngõ nhỏ, sâu, xanh rêu bước vào cảm giác mát lạnh như chuyển mùa.
Thăm ngôi nhà của ông Đinh Văn Lai, ngôi nhà được làm bằng gỗ vàng tâm từ năm 1918, tính đến nay đã 109 tuổi, ngôi nhà được cha ông Lai xây dựng khi ông còn chưa chào đời. Ngôi nhà có 3 gian, lợp bằng ngói đỏ, có hệ thống cột kèo đúng quy thức kiến trúc cổ Việt Nam, trong nhà có gian giữa để thờ cúng tổ tiên, đằng sau còn là hậu cung, hai bên là hai hàng câu đối chữ Hán. Trên các cánh cửa đều có chạm trổ tinh xảo cảnh sắc thiên nhiên, cảnh thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh ở Tây Thiên…
Đặc biệt là bộ tràng kỷ bằng gỗ quý, chắc chắn, ngồi lên cảm giác mát lạnh, mùi thơm thoang thoảng của gỗ vàng tâm. Ông Lai kể: “Ngày trước, bố tôi phải mua gỗ từ miền Trung và đi bằng đường biển, đường sông mới đưa được toàn bộ số gỗ về, sau đó ông cụ thuê mấy chục thợ làm suốt trong 2 năm ngôi nhà mới xong. Ngôi nhà như kỷ vật của bố để lại, cũng là một biểu tượng văn hóa. Vì vậy, tôi sẽ không bao giờ phá đi hay tu sửa quá mức”.
Ngoài các ngôi nhà cổ thuần Việt, Cự Đà còn có các ngôi biệt thự Pháp hai tầng. Nổi bật là kiểu hiên vòm độc đáo, ban công nhô ra với hàng lan can bụ bẫm, phóng khoáng mang phong cách kiến trúc thời Phục Hưng ở phương Tây thế kỷ 17.
Cự Đà không chỉ hấp dẫn khách du lịch bởi các nếp nhà cổ, mái ngói đỏ au phảng phất khói lam chiều mà thu hút bởi chính người dân nơi đây, giản dị và mến khách. Khung cảnh ở đây bình yên đến lạ, mọi người ai gặp nhau cũng tươi cười, hỏi thăm nhau, người già trẻ nhỏ tập trung nhiều ở sân đình trò chuyện với nhau những tháng ngày đã qua thật nhẹ nhàng…
Nổi danh làng nghề truyền thống
Cự Đà trứ danh với nghề làm miến và làm tương. Không rõ hai nghề này có từ bao giờ nhưng đều là nghề cổ và có phương pháp chế biến khác hẳn các nơi. Điều này cũng minh chứng rằng Cự Đà là một ngôi làng rất sầm uất từ xa xưa thì hai nghề mới cùng tồn tại được một lúc. Bởi các làng bên cạnh không có làng nào làm tương và miến như Cự Đà.
Miến Cự Đà nổi tiếng ngon |
Đến Cự Đà vào những ngày nắng, du khách dễ dàng thấy người dân phơi các tấm thảm trải miến khắp đường làng, ngoài cánh đồng vàng óng. Miến Cự Đà được làm bằng bột dong riềng, tráng thành từng bánh hấp chín và được mang đi phơi. Khi bánh đủ độ khô và dẻo, sẽ được mang đi thái sợi rồi lại được phơi khô, sau đó cuộn thành những cuộn nhỏ đóng gói mang đi tiêu thụ.
Miến Cự Đà nức tiếng bởi độ dai tự nhiên và mùi thơm đặc trưng của dong riềng. Đặc biệt, ngay cả khi miến sản xuất công nghiệp chiếm lĩnh thị trường thì miến Cự Đà vẫn có chỗ đứng, người dân vẫn sản xuất theo phương pháp thủ công và có những khách hàng quen thuộc hàng chục năm.
Ngoài miến, Cự Đà còn có tương. Người Hà Nội chắc hẳn ai cũng từng nghe câu “Tương Cự Đà – cà làng Đám”. Hầu hết các nhà trong Cự Đà vẫn còn làm tương, nhà nhiều thì 3 - 4 chục chum, nhà ít cũng 2 - 3 chum tự cung tự cấp. Tương Cự Đà được làm bằng đậu tương, gạo nếp, nước mưa, muối trắng và dĩ nhiên có phương pháp độc đáo riêng của người dân làng cổ. Tương Cự Đà cũng kén thời gian “ra lò”. Tương ngon nhất là làm khoảng từ tháng 4 đến tháng 8, thời gian này nắng lớn, ít mưa, tương dậy mùi hơn hẳn mùa khác. Một đặc điểm nổi bật của tương Cự Đà nữa là độ sánh, mịn hơn hẳn với tương nơi khác.
Sản phẩm tương Cự Đà nối tiếng cả nước |
Nếu bạn là một người hoài cổ và thích tìm hiểu văn hóa dân gian, thích thả hồn vào khung cảnh làng quê Việt Nam yên bình, thanh khiết thì Cự Đà là một địa điểm không thể bỏ qua nhất vào thời điểm mà làng đang vào mùa miến, mùa tương. Khói lam chiều bay lên từ mùi rơm nếp thơm đan vào từng lớp ngói đỏ dễ làm bất cứ ai xốn xang, nhất là những người con Việt Nam xa quê hương.
Nguyễn Công