Tôn trọng nữ giới chính là góp phần nâng cao chất lượng dân số
Một trong những cản trở chất lượng dân số ở nước ta hiện nay chính là tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn ăn sâu, bám rễ trong suy nghĩ nhiều người Việt. Đây là một trong những thách thức với công tác dân số trong việc chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số.
Để hiểu thêm về vấn đề này, Báo Phụ nữ Thủ đô có cuộc trò chuyện với ông Mai Xuân Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông – Giáo dục, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế.
Vẫn còn hàng loạt lý do phải có con trai
- Thưa ông, ta có thể thấy rõ vấn đề dân số Việt Nam phải đối mặt từ nay đến năm 2030 là xu hướng giảm sinh và mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây là hệ quả của bất bình đẳng giới?
- Ông Mai Xuân Phương: Đúng vậy, nói một cách dễ hiểu hơn là, tư tưởng trọng nam khinh nữ, thích con trai và muốn có con trai để nối dõi tông đường và thờ cúng tổ tiên… vẫn còn ngự trị trong tiềm thức của phần lớn người dân Việt Nam. Đây chính là nguyên nhân chủ quan, sâu xa nhất dẫn tới bất bình đẳng giới.
Vẫn còn hàng loạt lý do được đưa ra để giải thích cho việc phải có con trai: Trách nhiệm nối dõi dòng họ, trông nom chăm sóc mồ mả tổ tiên; không có con trai là một điều bất kính với dòng họ. Nam giới là nguồn lao động chính, kế thừa tài sản của gia đình và có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ lúc về già. Khi hệ thống phúc lợi xã hội đối với người già còn chưa phát triển, nhất là tại các vùng nông thôn, người già vẫn đa phần phải dựa vào sự hỗ trợ của con cháu.
Mặc dù công tác dân số thời gian qua rất chú trọng đến việc truyền thông, giáo dục để dần loại bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ, tuy nhiên ảnh hưởng vẫn còn rất nặng nề đến thực hiện các mục tiêu dân số. Những năm qua tỷ số chênh lệch giới tính khi sinh của Việt Nam luôn ở mức nghiêm trọng: năm 2019 là 111,5 bé trai/100 bé gái. Cá biệt, một số tỉnh, thành phố thuộc Đồng bằng sông Hồng có tỷ số giới tính khi sinh từ 120 đến 130 bé trai/100 bé gái.
Lâu nay, ta vẫn nghĩ trọng nam khinh nữ chỉ có ở nông thôn, nhưng rất tiếc tôi phải nói rằng, tư tưởng đó đang dần phổ biến ở thành thị, rơi nhiều vào 2 đối tượng: những gia đình khá giả và những người phụ nữ có trình độ học vấn cao. Tưởng chừng phi lý nhưng lại là sự thật. Nói cách khác, cách để có con trai ở nông thôn là “đẻ tới khi nào có thì thôi”, còn tại thành thị - nơi có hỗ trợ về kinh tế và khoa học kỹ thuật, thì họ chọn “đường tắt” là tận dụng lợi thế của y học và “lách” khỏi sự chưa nghiêm trong luật pháp về lựa chọn giới tính thai nhi.
Ông Mai Xuân Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông – Giáo dục, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế (Ảnh: NVCC)
Từ góc độ xã hội còn một nguyên nhân nữa, là có những người phụ nữ quá khổ, nên họ không muốn sinh ra con gái để con gái họ “tiếp tục” những khổ đau đó. Sinh con trai, họ được tiếng với nhà chồng, nhẹ nhàng thoát khỏi nhiều áp lực. Chính vì thế, họ không muốn con mình là gái. Thậm chí, họ không muốn lấy chồng, sẵn sàng chấp nhận cảnh làm mẹ đơn thân. Trong chính giới nữ vẫn đang chưa coi trọng nữ giới.
Chung quy lại, mấu chốt vẫn ở tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” trói buộc người Á Đông bấy lâu nay.
- Vậy bất bình đẳng giới đang và sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng dân số ở nước ta ?
- Ông Mai Xuân Phương: Nó sẽ gây biến động xã hội theo chiều hướng xấu. Vị thế của phụ nữ và trẻ em gái vĩnh viễn thấp kém hơn nam giới. Không sinh được con trai, chị em sẽ bị gây áp lực là người không biết đẻ, vô dụng, từ đó dễ rơi vào tình trạng bị bạo lực trên cơ sở giới (bạo lực về tinh thần, thân thể), có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Nam giới sẽ tiếp tục phải khoác lên trách nhiệm trụ cột gia đình, dòng họ. Nếu không làm được, anh sẽ bị dè bỉu là thiếu nam tính, có nguy cơ cao gây bạo lực, ngoại tình, trở thành người vi phạm pháp luật... Nếu nghèo khó và không thành đạt, anh sẽ khó lấy vợ.
Chiều hướng xấu hơn nữa là gia tăng buôn bán phụ nữ và trẻ em. Xâm hại tình dục cũng tăng. Tính trung bình 5 năm gần đây thì mỗi năm có khoảng gần 1.000 trẻ bị xâm hại tình dục, với 80% là hiếp dâm trẻ em. Trong tiếp cận việc làm cũng sẽ có sự bất bình đẳng. Bản thân nam giới khó kiếm việc làm. Phụ nữ - với từng ấy nguy cơ kể trên sẽ càng khó tìm việc.
Bất bình đẳng giới, hay cụ thể là tư tưởng trọng nam khinh nữ sẽ khiến tỷ lệ phá thai cao, ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản của phụ nữ. Hậu quả này không thể chối cãi khi Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ phá thai cao. Mất cân bằng giới tính khi sinh dẫn đến nguy cơ nam giới không lấy được vợ. Tổncục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) dự báo năm 2059, Việt Nam sẽ dư thừa 2,5 triệu nam giới. Nếu mức độ cân bằng giới tính khi sinh được cải thiện thì số nam giới dư thừa năm 2034 là 1,5 triệu người, năm 2059 là 1,8 triệu người. Bên cạnh đó, số lượng phụ nữ Việt lấy chồng nước ngoài có xu hướng gia tăng. Cấu trúc gia đình bị phá vỡ khi người sống độc thân ngày càng nhiều; gia tăng tình trạng ly thân và ly hôn. Tệ nạn xã hội sẽ phát sinh nhiều hơn như mại dâm, buôn bán người phụ nữ và trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em...
Bởi vậy, tập trung nguồn lực để giải quyết các vấn đề liên quan đến bất bình đẳng giới, nâng cao chất lượng dân số, đề cao vai trò và giá trị người phụ nữ là nhu cầu cấp bách của xã hội.
“Đơn giản hóa thông điệp về bình đẳng giới, nữ giới hãy biết yêu bản thân mình, biết tự chăm sóc mình, hãy đơn giản cuộc sống và không nên tự gây áp lực cho mình”: Ông Mai Xuân Phương nói.
Chính người phụ nữ học cách yêu và trân trọng bản thân mình, mới là cách làm triệt để nhất xóa bỏ bất bình đẳng giới
- Trước những thách thức đó, chúng ta có những chiến lược và chính sách trọng tâm nào để giải quyết các vấn đề gây hạn chế chất lượng dân số, đồng thời xóa bỏ bất bình đẳng giới, nâng cao quyền năng cho phụ nữ và trẻ em?
- Ông Mai Xuân Phương: Để giải quyết toàn diện các vấn đề phát sinh của công tác dân số trong thời kỳ mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã đề ra Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong thời kỳ mới. Chính phủ ban hành Nghị quyết 137/NQ-CP, ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, giao 12 bộ, ban, ngành xây dựng 42 chương trình, luật, đề án, chương trình hành động nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 21-NQ/TW.
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, một số văn bản luật, chiến lược, chương trình, đề án đã được ban hành như: Bộ Luật Lao động sửa đổi; Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030; Chương trình Truyền thông dân số đến năm 2030; Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, các đối tượng đến năm 2030; Chương trình Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030; Chương trình củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến năm 2030, Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030… Mô hình tổ chức bộ máy làm công tác dân số, cơ chế phối hợp liên ngành, mô hình cộng tác viên làm công tác dân số đang được tích cực hoàn thiện đê trình Thhủ tướng Chính phủ ban hành.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, gốc rễ của vấn đề nằm ở tư tưởng trọng nam khinh nữ. Bởi vậy, không còn cách nào khác là phải từng bước giải quyết tận gốc tư tưởng này. Dù rất khó và gian nan, nhưng cần sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị và cộng đồng, nhất là sự vào cuộc của các bộ, ngành, đoàn thể, trong đó sự vào cuộc tích cực hơn nữa của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ. Với các hoạt động thực chất, hiệu quả, các thông điệp bình đẳng giới đơn giản, dễ hiểu sẽ giúp người dân dám đối thoại, dám thay đổi quan niệm. Đồng thời, cần có những biện pháp răn đe, giáo dục với các hành vi xúc phạm, hạ thấp quyền của người phụ nữ.
Hơn cả, tôi cho rằng, chính người phụ nữ học cách yêu và trân trọng bản thân mình, mới là cách làm triệt để nhất xóa bỏ bất bình đẳng giới, hướng tới một xã hội bền vững và hạnh phúc.
Lớp trẻ Hà Nội ngày càng thay đổi nhận thức về bình đẳng giới
- Với riêng Hà Nội, là địa phương có tỷ lệ người di cư cao và tốc độ đô thị hóa rất nhanh, kéo theo diễn biến phức tạp về vấn đề dân số. Ông đánh giá như thế nào về vấn đề này và cho rằng, đâu là gốc rễ về vấn đề chất lượng dân số mà Thủ đô cần phải giải quyết để góp phần vào sự phát triển chung?
- Ông Mai Xuân Phương: Trước hết, ta không thể phủ nhận người di cư cao và tốc độ đô thị hóa nhanh sẽ góp phần gia tăng tính năng động xã hội của người lao động và thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa. Lớp trẻ sinh sống và làm việc tại Thủ đô hiện nay đã dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và có nhiều thay đổi tích cực, hiện đại về bình đẳng giới, về khẳng định bản thân mình.
Song điều quan trọng là việc di cư từ các vùng nông thôn ra Thủ đô đã và đang gây áp lực không nhỏ đối với hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội, nhà ở... Ngoài ra, tình trạng gia tăng dân số cơ học quá nhanh ở các đô thị lớn cũng khiến công tác quản lý dân cư gặp không ít khó khăn. Thực trạng này đã và đang khiến Thủ đô phải gánh chịu sức ép về dân số và nghèo đói.
Cùng với đó, tính bất ổn định trong việc làm và thu nhập của người nhập cư khá cao. Trong khi chính sách quản lý đô thị ngày càng chặt chẽ cũng đã có những ảnh hưởng bất lợi đến nhóm nhập cư, nhất là với những người bán hàng rong ở các đô thị lớn. Cũng bởi vậy mà hầu hết trong số họ khó tiếp cận hệ thống an sinh xã hội.
Do đó, nếu không có những chính sách phù hợp, phần lớn những người di cư sẽ phải đối mặt với thực trạng là chuyển cái nghèo khó từ nơi này sang cái nghèo khó ở nơi khác mà thôi. Ấy là chưa nói đến những “lệch pha” về văn hóa và lối sống, dẫn đến những hệ lụy mang tính xã hội. Tất cả những điều này đều ảnh hưởng đến chất lượng dân số Thủ đô. Cần phải có những giải pháp chiến lược từ góc độ chính quyền đô thị và cộng đồng để thực thi hiệu quả những vấn đề mang tính quy luật đó.
- Trân trọng cảm ơn ông!
QUỲNH ANH (thực hiện)