Ngăn chặn tệ ưa thích con trai, hạ thấp giá trị con gái
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới thuộc Mục tiêu 3 của Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Tuy nhiên, những biểu hiện của bất bình đẳng giới như bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, tình trạng tảo hôn và lựa chọn giới tính thai nhi vẫn còn tồn tại.
Sự ưa thích con trai và lựa chọn giới tính khi sinh do định kiến giới
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam được xác định lần đầu tiên vào năm 2004, và từ năm 2005 việc nghiêng về sinh con trai tăng lên nhanh chóng. Theo Tổng Điều tra dân số và nhà ở, tỷ số giới tính khi sinh vẫn còn ở mức sinh học vào năm 2000 là 106,2 bé trai /100 bé gái đã lên tới 112,1 bé trai /100 bé gái (năm 2017) 114,8 bé trai/100 bé gái (năm 2018), 111,5 bé trai/100 bé gái (năm 2019).
Ảnh minh họa
Nguyên nhân của việc lựa chọn giới tính khi sinh thiên về con trai xuất phát từ bối cảnh nhân khẩu học, kinh tế-xã hội và văn hóa ở Việt Nam. Những yếu tố này đan bện và củng cố lẫn nhau khiến cho tỷ số giới tính khi sinh cao hơn hẳn mức sinh học bình thường...
Việc lựa chọn giới tính khi sinh dựa trên cơ sở bất bình đẳng giới được xác định là nguyên nhân chủ yếu của sự mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam. Nhân tố đầu tiên tác động đến hành vi lựa chọn giới tính khi sinh dựa trên cơ sở bất bình đẳng giới của các cặp vợ chồng là sự ưa thích con trai, bắt nguồn sâu xa từ văn hóa truyền thống của Nho giáo và hệ thống gia đình phụ hệ. Con trai trưởng thường được kỳ vọng sống cùng bố mẹ, có nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên và các nghi lễ quan trọng khác trong cuộc sống. Mặt khác, các chuẩn mực xã hội và tín ngưỡng thường đòi hỏi con trai thực hiện trọng trách thờ cúng tổ tiên và các lễ nghi quan trọng khác trong cuộc sống. Con trai củng cố địa vị của cha mẹ mình trong xã hội và thường được ưu tiên trong thừa kế đất đai, tài sản.
Mặc dù Nhà nước đang nỗ lực tiến hành các hoạt động, mục tiêu thúc đẩy bình đẳng giới nhưng tâm thức ưa thích con trai vẫn phổ biến rộng rãi trong các gia đình và cộng đồng. Đặc biệt là ở miền Bắc - nơi có tỷ số giới tính khi sinh cao hơn so với những khu vực khác trong nước.
Chính sự ưa thích con trai đã dẫn tới tình trạng việc sinh đẻ của phụ nữ chỉ kết thúc khi đã sinh được con trai. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, nếu không có sự ưa thích con trai sẽ có ít hơn các cặp vợ chồng muốn sinh nhiều hơn hai con. Tỷ số giới tính khi sinh lần cuối của những phụ nữ lớn tuổi thường có số bé trai vượt trội.
Một nghiên cứu của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc về sự ưa thích con trai của nam giới tại Việt Nam đã chỉ ra mối liên hệ giữa trình độ học vấn của người đó và mức độ của sự ưa thích này. Đó là những nam giới có trình độ học vấn cao thường không đặt nặng vấn đề có con trai, trong khi những người có học vấn thấp hơn lại có sự ưa thích con trai mạnh hơn. Tương tự, nam giới trong nhóm nghề lao động phổ thông hoặc nông nghiệp chiếm số lượng lớn trong nhóm có sự ưa thích con trai cao hơn. Những nam giới có xu hướng kiểm soát bạn đời như một biểu hiện của thái độ bất bình đẳng giới cũng có mức độ ưa thích cao trai cao.
Tâm lý ưa thích con trai cũng phản ánh định kiến giới nặng nề trong xã hội, kéo theo giá trị của con gái bị hạ thấp. Con gái vẫn được xem là "con người ta" trong gia đình khi lớn lên. Do vậy, sự đầu tư cho con gái ăn học, tìm việc làm đều không được chú trọng như con trai. Đa số các gia đình vẫn có quan niệm con gái không có quyền được thừa hưởng tài sản và quyền thừa kế trong gia đình bố mẹ đẻ lẫn trong gia đình chồng. Mặc dù luật pháp đã có quy định quyền thừa kế tài sản, quyền chia tài sản của con gái và con trai đều bình đẳng như nhau trong gia đình.
Công nghệ lựa chọn giới tính hiện đại và mức sinh giảm
Tóm tắt hình hình quốc gia của Chương trình Toàn cầu nhằm ngăn chặn tình trạng ưa thích con trai và hạ thấp giá trị của con gái: Cải thiện tỷ số giới tính khi sinh tại một số quốc gia ở châu Á và khu vực Cáp-ca-dơ do Quỹ dân số Liên Hợp Quốc thực hiện năm 2019 cho thấy: Tại Việt Nam, bên cạnh nguyên nhân chính là sự ưa thích con trai, yếu tố thứ hai liên quan đến sự mất cân bằng giới tính khi sinh là khả năng tiếp cận công nghệ xác định giới tính khi sinh và phá thai có chủ đích. Sự phát triển của công nghệ siêu âm hiện đại ở Việt Nam từ sau năm 2000 cùng với các cơ sở nạo phá thai, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, cơ sở hạ tầng tốt hơn, giá thành công nghệ thấp hơn đã và đang có tác động tới sự gia tăng tỷ số giới tính khi sinh trong thập kỷ vừa qua. Sự phát triển của lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tư nhân, kèm theo đó là mức sống tốt hơn, tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa cũng giúp công nghệ xác định sớm giới tính thai nhi và phá thai phổ biến.
Ảnh minh họa
Một nguyên nhân khác là do mức sinh giảm. Việt Nam đã dừng ở mức sinh thay thế trong gần một thập kỷ qua, giảm từ 2,25 con/phụ nữ vào năm 2001 xuống còn 2,04 con vào năm 2017. Năm 2019, mức sinh của một số vùng miền như giảm mạnh và không đồng đều giữa cách vùng miền. Điển hình như vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế, như TP Hồ Chí Minh (trung bình 1,33 con), Đồng Tháp (1,57 con); Cần Thơ (1,58 con), Cà Mau (1,62 con), Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu (1,7 con)... Việc lựa chọn giới tính khi sinh bằng các công nghệ hiện đại khiến nhiều bậc cha mẹ không có nhu cầu sinh nhiều con khi đã có con trai.
Thách thức chính trong giải quyết vấn đề ưa thích con trai và lựa chọn giới tính khi sinh trên cơ sở định kiến giới ở Việt Nam là sự cân bằng giữa đảm bảo thực thi pháp luật trong việc cấm thực hành lựa chọn giới tính thai nhi và bảo vệ quyền sinh sản của phụ nữ. Ví dụ gần đây bản dự thảo Luật Dân số đưa ra các điều khoản dự định giảm mất cân bằng giới tính khi sinh bằng cách hạn chế quyền phá thai của phụ nữ. Những điều khoản này không cho thấy hiệu quả và đi ngược lại việc đảm bảo các quyền sinh sản của phụ nữ.
Giải pháp nào để giải quyết vấn đề?
Các nghiên cứu của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc đưa ra những khuyến nghị để giải quyết vấn đề này như vận động chính sách và can thiệp nhằm thay đổi các chuẩn mực xã hội.
Đó là, tiếp tục thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức xã hội nhằm giảm sự ưu thích con trai và hạ thấp giá trị của con gái, cũng như hậu quả của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Giải quyết bất bình đẳng giới với trọng tâm hướng tới giải quyết phân biệt đối xử theo giới trong gia đình. Những thay đổi về nơi cư trú của cặp vợ chồng và tập tục thừa kế có thể nâng cao con gái trong suy nghĩ của cha mẹ và người dân trong cộng đồng.
Cải thiện khả năng tiếp cận hoạt động hỗ trợ pháp lý cho nữ giới. Hiện tại, các quyền thừa kế của phụ nữ Việt Nam thường bị vi phạm. Điều quan trọng là cần nâng cao kiến thức của người dân về quyền thừa kế của nữ giới và khuyến khích con gái khẳng định, thực hiện quyền của họ đối với tài sản gia đình. Hỗ trợ pháp lý cho phụ nữ có thể giúp họ đảm bảo các quyền thừa kế của mình.
Thu hút nam giới xây dựng các thực hành mới trong gia đình và đẩy mạnh sự tham gia của họ trong việc chăm sóc gia đình...
HẠ THI