Người kéo cờ trong Lễ tuyên ngôn độc lập lịch sử
Cách đây 75 năm, tại Quảng trường Ba Đình, Giáo sư Lê Thi là một trong hai thiếu nữ được chọn lên kéo cờ tổ quốc trong Lễ Tuyên ngôn độc lập (ngày 2/9/1945). Giây phút lịch sử ấy đã ảnh hưởng lớn để bà một lòng đi theo cách mạng, cống hiến, đóng góp cho đất nước trong thời chiến cũng như thời bình. Ngày 28/8/2020, bà đã từ biệt nhân gian.
Bà Lê Thi (trái ) và bà Đàm Thị Loan: Hai người phụ nữ kéo cờ trong Lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. (Ảnh: Tư liệu)
Ngẫu nhiên trở thành nhân vật lịch sử trong Lễ Tuyên ngôn độc lập
Giáo sư, tiến sĩ Lê Thi tên thật là Dương Thị Thoa, sinh năm 1926. Lê Thi là bí danh của bà khi tham gia hoạt động cách mạng. Bà sinh ra trong một gia đình trí thức ở Hà Nội, là con gái của nhà giáo, Hiệu trưởng trường Bưởi, liệt sĩ Dương Quảng Hàm. Giác ngộ cách mạng từ năm 17 tuổi, khi tốt nghiệp trường nữ sinh Đồng Khánh, bà tham gia đội phụ nữ cứu quốc đi tuyên truyền vận động mọi người ủng hộ cách mạng. 19 tuổi, bà đã chính thức trở thành một chiến sĩ Việt Minh, những năm sau đó bà hoạt động trong Trung đoàn Thủ đô rồi tham gia công tác phụ nữ tại nhiều tỉnh thành.
Sinh thời, bà kể việc mình được chọn lên kéo cờ Tổ quốc trong Lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 rất ngẫu nhiên. Hôm đó, bà dẫn đầu Đoàn Phụ nữ Hàng Bông đến Quảng trường Ba Đình. Bấy giờ, một cán bộ trong Ban tổ chức Ngày lễ độc lập đến và thông báo cử một phụ nữ lên kéo cờ Tổ quốc. Bà được các chị em đồng thanh tiến cử lên tham gia kéo cờ. Cùng tham gia kéo cờ với bà hôm ấy còn có một phụ nữ người dân tộc Tày là bà Đàm Thị Loan (sau này là vợ của Đại tướng Hoàng Văn Thái).
Bà từng chia sẻ về khoảnh khắc giây phút lịch sử kéo cờ Tổ quốc trong Lễ Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945: Việc kéo cờ hôm ấy bà không được học hay chuẩn bị trước nên rất lo. Bà và bà Đàm Thị Loan bắt đầu kéo cờ khi bài Tiến quân ca nổi lên. Đến lúc cờ lên đến đỉnh cao chót vót là lúc đó Tiến quân ca vừa hết, cả hai thở phào nhẹ nhõm, lòng vui sướng xen lẫn tự hào và xúc động.
Trong kháng chiến chống Pháp, bà làm cán bộ phụ nữ ở khu Hoàn Kiếm (Hà Nội), công tác phụ nữ ở tỉnh Vĩnh Yên và tỉnh Tuyên Quang; công tác trong nội thành Hà Nội bị tạm chiếm. Năm 1956, bà được cử đi học lớp lý luận chính trị cao cấp đầu tiên của Trường Nguyễn Ái Quốc. Sau khi tốt nghiệp loại ưu, bà được giữ lại làm giảng viên, rồi đảm nhiệm nhiều vị trí công tác khác nhau như: Từ năm 1962-1987, bà nghiên cứu và giảng dạy về triết học, sau đó làm Viện trưởng Viện Triết học Việt Nam (nay là Viện Triết học - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam). Bà đảm nhiệm chức vụ Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phụ nữ và Gia đình (nay là Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) từ năm 1987-1999. Trong giai đoạn này, bà được phong hàm Giáo sư Triết học (năm 1992). Từ năm 1997-2004, bà là Chủ tịch Quỹ hỗ trợ cho sự bình đẳng về giới ở Việt Nam do Thụy Điển và Đan Mạch tài trợ.
Nhà khoa học tâm huyết với bình đẳng giới và phát triển phụ nữ
Giáo sư Lê Thi không chỉ là một nhân vật lịch sử trong ngày Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bà còn được biết đến là một nhà nghiên cứu khoa học, tâm huyết với bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ. Từng là cán bộ Hội Phụ nữ nên bà thấu hiểu những vấn đề của nữ giới, nhất là vấn đề bình đẳng giới. Bà đã có những công trình nghiên cứu khoa học xuất bản thành sách cá nhân (không kể những sách do bà làm chủ biên đồng tác giả) như: 3 cuộc cách mạng và vấn đề giải phóng phụ nữ (NXB Phụ nữ 1976). Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam (NXB Phụ nữ 1982); Tìm hiểu việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN ở Việt Nam (NXB KHXH 1983). Việc làm đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam (NXB KHXH 1999).
Đặc biệt, bà dành nhiều nghiên cứu về hôn nhân gia đình Việt Nam. Giáo sư Lê Thi cho rằng "trong chương trình nghiên cứu về con người, gia đình thật sự là một lối ra, đem tri thức cho quảng đại quần chúng". Bà đã có những cuốn sách nghiên cứu về hôn nhân gia đình như: Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam (NXB Phụ nữ 1998); Cuộc sống và biến động của hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay. NXB KHXH 2006; Hỏi đáp về hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay (NXB Thế giới 2006); Sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hôn nhân gia đình giữa các thế hệ người Việt Nam hiện nay (NXB KHXH 2009).
Một trong các trong các vấn đề về phụ nữ được bà quan tâm là cuộc sống của phụ nữ đơn thân. Đối tượng được xem là nạn nhân của đạo đức phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ, cuộc sống chịu nhiều thiệt thòi về vật chất lẫn tinh thần, tình cảm. Cuốn sách "Cuộc sống của phụ nữ đơn thân ở Việt Nam" (NXB KHXH 2002) của bà đã giúp cho xã hội có cái nhìn toàn cảnh về cuộc sống của người phụ nữ đơn thân qua các góc độ.
95 tuổi đời, bà đã sống và làm việc theo lý tưởng cách mạng, học tập và noi gương Bác Hồ trong phong cách làm việc và lối sống, luôn giản dị đời thường, hòa đồng gần gũi với mọi người.
THU GIANG