Tiếng nói nữ quyền trong thơ Louise Glück - nữ chủ nhân giải Nobel Văn học 2020

Chia sẻ

Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố chủ nhân mới của giải Nobel Văn chương 2020 là nữ nhà thơ người Mỹ - Louise Glück "vì giọng thơ độc đáo không thể nhầm lẫn, với vẻ đẹp khắc khổ làm cho sự tồn tại cá nhân trở nên phổ quát". Tính đến nay, đã có 116 nhà văn đoạt giải, trong số đó, 15 người là nữ, gần đây nhất là nhà văn Ba Lan Olga Tokarczuk (2018).

Nhà thơ đương đại tài năng của Mỹ

Chủ nhân của giải Nobel Văn chương 2020 không hề có trong danh sách dự đoán của nhiều người. Nhưng với những ai yêu thơ ca đương đại Mỹ, chiến thắng của Louise Glück là một kết quả xứng đáng. Louise Glück sinh năm 1943 tại New York và hiện sống ở Cambridge, Massachusetts. Ngoài sáng tác thơ ca, bà còn là một giáo sư Anh ngữ giảng dạy tại đại học Yale, New Haven, Connecticut. Louise Glück là phụ nữ Mỹ đầu tiên giành giải Nobel Văn chương trong vòng 27 năm qua với “một giọng thơ khác biệt”. Trước khi thắng giải Nobel, bà từng được nhận một số giải thưởng văn học uy tín như: Giải William Carlos Williams năm 1992, giải Pulitzer cho thơ năm 1993, giải Văn chương Lannan cho thơ năm 1999, giải Bollingen năm 2001, và giải Sách Quốc gia Mỹ cho thơ năm 2014. Bà được xem là một trong những nhà thơ đương đại tài năng nhất của Mỹ. Louise Glück đã xuất bản 12 tuyển tập thơ và một số tuyển tập phê bình thơ. Thơ của bà luôn thể hiện niềm khao khát sự sáng chói. Thời thơ ấu và cuộc sống gia đình, mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái luôn là chủ để bà hướng tới cũng như sáng tác dựa trên các câu chuyện thần thoại Hy Lạp và La Mã.

Năm 2015, Louise Glück đượcBarack Obama - Tổng thống Mỹ khi đó - trao Huân chương quốc giavề nghệ thuật và nhân văntại Nhà Trắng. Ảnh: AP.Năm 2015, Louise Glück được Barack Obama - Tổng thống Mỹ khi đó - trao Huân chương quốc gia về nghệ thuật và nhân văn tại Nhà Trắng. Ảnh: AP.

Tác phẩm đầu tay của bà mang tên Firstborn được in năm 1968 đã nhanh chóng thu hút được độc giả và đưa bà trở thành một trong những nhà thơ lớn nhất của văn chương Mỹ đương đại. Chủ tịch Hội đồng giải Nobel Văn chương, ông Anders Olsson cho rằng: “Trong thơ của Louise Glück chứa đựng bản ngã lắng nghe những gì còn lại của giấc mơ và ảo tưởng. Không ai khó khăn hơn bà trong việc đối mặt với những ảo tưởng của bản ngã”. Bà cho biết: “Khi còn trẻ, tôi đã sống theo cách mà tôi cho rằng các nhà văn sẽ sống như thế, trong đó bạn thoái thác thế giới, hiến dâng tất cả sức lực của mình cho việc sáng tạo nghệ thuật. Tôi đã ngồi bên một chiếc bàn làm việc và thật kinh khủng - càng ngồi đó mà không viết, tôi càng nghĩ rằng mình chưa từ bỏ thế giới đủ nhiều. Sau hai năm kể từ đó, tôi đi đến kết luận rằng mình sẽ không trở thành một nhà văn. Vì vậy, tôi đã nhận công việc giảng dạy ở Vermont, mặc dù tôi đã nghĩ rằng các nhà thơ thường không dạy học. Nhưng tôi đã nhận công việc này, và phút tôi bắt đầu dạy học - phút tôi có nghĩa vụ trên đời - tôi lại bắt đầu viết”.

Nhà thơ không thích ồn ào, ca tụng

Giải Nobel sẽ đánh dấu một sự thay đổi lớn đối với Louise Glück , bà chưa từng bao giờ ưa thích sự náo nhiệt của danh tiếng và sự tung hô của công chúng. Khi Glück được trao giải Nhà thơ Mỹ vào năm 2003, bà đã cho biết mình không quan tâm đến đông đảo công chúng mà chỉ thích số ít độc giả đam mê và mãnh liệt. Năm 2015, Louise Glück được cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama trao Huân chương quốc gia về nghệ thuật và nhân văn. Bà cũng từng giành giải Pulitzer, giải Sách Quốc gia Mỹ. Theo Viện Hàn lâm, bà nhanh chóng được ca ngợi như một trong những nhà thơ nổi bật của văn học đương đại Mỹ ngay từ tập thơ đầu tiên Firstborn (1968) - viết về thời thơ ấu, cuộc sống gia đình.

The House on Marshland - tập thơ thứ hai, ra đời năm 1975, là cú đáp trả của bà với giới nghiên cứu Mỹ, khi họ từng hoài nghi: "Chúng ta có thể mong đợi điều gì từ Louise Glück trong tương lai?". Tác phẩm có chủ đề tương tự Firstborn nhưng gây ấn tượng bởi lối diễn đạt ẩn dụ tinh tế. Lần này, sự cô đơn đồng hành Louise Glück trong nhiều câu chữ. Trong bài Gretel in Darkness, bà viết: “Nhiều đêm em quay sang để anh ôm lấy em/ Nhưng anh đâu còn ở đây nữa”. Louise Glück nói nhiều về giấc mơ, qua đó khắc họa cảm giác cô độc, mông lung. Bài Brennende Liebe có câu: "Đêm qua/ Tôi mơ thấy anh không trở về”. Nữ quyền được Louise Glück đưa vào nhiều tác phẩm, điển hình là bài Mock Orange. Bà tuyên bố ghét quan hệ tình dục, ví von chuyện sex với loài hoa mock orange - giống hoa dại có hương thơm nhẹ, ra quả giống cam nhưng không ăn được. Với nhà thơ, quan hệ tình dục không giải quyết được bất cứ điều gì mà chỉ tạo ra ảo tưởng về sự gắn kết, giống như mùi hương hững hờ của loài cam giả. Thông qua các tích truyện thần thoại, bà cũng thể hiện góc nhìn bênh vực phái đẹp. Bà kể bi kịch của nữ hoàng Dido - người bị anh hùng Aeneas phản bội, Persephone - con gái của thần Zeus và nữ thần nông nghiệp Demeter bị thần địa ngục Hades bắt cóc về làm vợ, hay Eurydice - vợ của nhạc công Orpheus, người đã cố gắng đưa cô về dương gian từ địa ngục nhưng không thành. Những kẻ bị trừng phạt, ruồng bỏ hay phản bội trở thành cảm hứng xuyên suốt trong tác phẩm, biểu đạt tiếng nói bênh vực phụ nữ và tượng trưng cho nỗi đau.

Những khúc ca từ nỗi đau đời

Những nỗi đau của nhân loại là chủ đề chính trong tác phẩm Louise Glück, xuất phát từ chính cuộc đời nhiều biến cố của bà. Glück mắc chứng biếng ăn sinh lý từ khi học phổ thông, từng trải qua hai cuộc hôn nhân đổ vỡ và một lần mất hết nhà cửa, tài sản vì hỏa hoạn.

The Wild Iris cũng từng thắng giải PulitzerThe Wild Iris cũng từng thắng giải Pulitzer

Từ những trải nghiệm cá nhân, nhà thơ nhìn trực diện vào nỗi đau, diễn đạt nó một cách "thẳng thắn, không khoan nhượng", theo Anders Olsson - Chủ tịch Ủy ban Nobel. Bà viết về nỗi tuyệt vọng trong bài “Hoa xuyên tuyết” (thuộc tuyển tập The Wild Iris, 1992 - từng thắng giải Pulitzer): “Tôi từng là gì, tôi đã sống ra sao anh có biết?/ Khi anh hiểu nỗi tuyệt vọng là thế nào/ Hẳn mùa đông sẽ có ý nghĩa với anh”. Tuyệt vọng không phải là kết thúc mà để hướng tới hy vọng, hồi sinh. Ý niệm đó được bà diễn tả trong một nỗi khổ khác: "Tôi đã không mong sống sót/ Khi đất lèn chặt lên tôi/ Không mong thêm lần tỉnh dậy/ Nghe đất ẩm quấn quanh người/ Thế rồi khi mùa xuân đến/ Trong tia sáng lạnh đầu tiên/ Thấy mình cựa lật hồi sinh…”. Bà nói nhiều tác giả ở tuổi trung niên sợ hãi khi viết về cái chết nhưng bà tìm thấy niềm hạnh phúc kỳ lạ khi nghĩ về nó. Cái chết của người cha trở thành cảm hứng để Glück sáng tác tập thơ Ararat (1990). Nhà phê bình Dwight Garner gọi tác phẩm là "cuốn sách tàn bạo, đau khổ nhất của thơ ca Mỹ được xuất bản trong 25 năm qua". Trong tác phẩm này, nỗi đau khi bố mẹ qua đời sớm, sự ganh đua giữa các chị em gái của bà, việc mâu thuẫn với các con được bà diễn đạt khéo léo, nhận đồng cảm từ độc giả.

Sự kiện khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001 thôi thúc bà viết tập thơ October. Trong đó, bà dựa trên thần thoại Hy Lạp để nói về những vết thương. Nhà văn Harper Lee nhận xét cuốn sách làm tiêu tan những ý niệm lãng mạn về mùa thu nhưng khiến độc giả phải bật khóc khi nhìn trực diện vào nỗi thống khổ của thế giới. Hình ảnh người con chôn cất cha trong chiều tháng 10, những gốc bí ngô héo úa gợi liên tưởng về sự tàn lụi. Thế nhưng sau tất cả, trong thơ bà vẫn nhen nhóm hy vọng về những điều tốt đẹp.

Chiến thắng của Glück xoa dịu nhiều tranh cãi

Tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ phổ biến nhất của những người chiến thắng và châu Âu vẫn là châu lục được trao giải nhiều nhất. Các nhà văn đến từ châu Á vẫn "thất thế" khi mới chỉ có bốn người từng được vinh danh là Rabindranath Tagore (Ấn Độ), Yasunari Kawabata và Kenzaburō Ōe (Nhật Bản) và Mạc Ngôn (Trung Quốc). Trong những năm gần đây, các quyết định của Viện Hàn lâm Thụy Điển thường gây nhiều tranh cãi.

Năm ngoái, Olga Tokarczuk và Peter Handke lần lượt được vinh danh, tiếp tục đem về chiến thắng cho châu Âu trước làn sóng đòi hỏi Nobel phải mở rộng ra các châu lục khác. Chiến thắng của Glück được đánh giá là đã xoa dịu làn sóng kêu gọi Ủy ban Nobel phải mở rộng giải thưởng ra các châu lục khác ngoài châu Âu, để ý đến mảng thơ ca và các tác giả nữ. Độc giả Việt Nam từng được tiếp cận với thơ của Louise Glück trong tập 15 nhà thơ Mỹ thế kỷ XX do dịch giả Hoàng Hưng và các cộng sự chuyển ngữ, trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây và Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành.

NGUYỄN HƯNG

Tin cùng chuyên mục

Nữ nhà báo Trần Thu Hà: Nhìn con mà tôi tự sửa mình

Nữ nhà báo Trần Thu Hà: Nhìn con mà tôi tự sửa mình

(PNTĐ) - Với hơn 20 năm hoạt động trong lĩnh vực báo chí, đặc biệt là từ những trải nghiệm trong thời gian làm báo dành cho tuổi teen Hoa Học Trò đã hỗ trợ nữ nhà báo Trần Thu Hà, hay còn được biết đến với tên gọi thân mật Mẹ Xu Sim nhiều kiến thức trên hành trình làm mẹ. Cùng với một số cuốn sách chị đã xuất bản như "Con nghĩ đi, mẹ không biết", "Buông tay để con bay", "Ai cũng xứng đáng được hạnh phúc", các bài viết chia sẻ kinh nghiệm nuôi dạy con trên mạng xã hội của chị cũng luôn được đông đảo các bậc cha mẹ đón đọc.
Tình yêu ngục tù

Tình yêu ngục tù

(PNTĐ) - Chị bảo vì em gái chị yêu nhầm người nên không chỉ cô em gái bị ảnh hưởng mà còn khiến cuộc sống của gia đình chị cũng nơm nớp theo sự đe dọa của người đàn ông yêu ngông cuồng đó.
Tình già

Tình già

(PNTĐ) - “Mẹ ơi, con xin phép đưa bố lên trông nhà cho vợ chồng con mấy bữa, khi nào ổn thỏa thì con lại để bố về với mẹ, được không ạ?”.