Bị bạn làm ăn tự ý bán tài sản của mình đầu tư
Tôi và một người bạn hợp tác làm ăn, cho thuê văn phòng chia sẻ theo giờ. Bạn tôi có mặt bằng dịch vụ diện tích hơn 100m2 tại một khu chung cư, tôi bỏ tiền đầu tư toàn bộ nội thất, máy tính, máy in, máy photocopy, điện thoại…
Câu hỏi:
Vì đang làm ở cơ quan nhà nước, nên tôi ủy quyền cho bạn tôi quản lý, cho thuê số tài sản tôi đầu tư. Tuy nhiên được một thời gian bạn tôi đã chuyển nhượng mặt bằng và tự ý bán toàn bộ số tài sản của tôi ở đó. Xin hỏi báo Phụ nữ Thủ đô, do tôi không ủy quyền bán tài sản đã đầu tư nói trên, thì tôi có được yêu cầu người nhận chuyển nhượng trả lại số tài sản này cho mình hay không?
Đức Hùng (Tây Hồ, Hà Nội)
Ảnh minh họa
Trả lời
Điều 134 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về đại diện như sau:
“1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.
3. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện”.
Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (gọi chung là đại diện theo pháp luật).
Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện được quy định cụ thể tại Điều 139 Bộ luật này như sau:
“1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.
2. Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện.
3. Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối”.
Thông tin của bạn cho thấy, bạn chỉ ủy quyền cho người cùng hợp tác làm ăn là quản lý, cho thuê tài sản. Về nguyên tắc, người được ủy quyền chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi ủy quyền này.
Không có ủy quyền của bạn về việc bán tài sản, hậu quả của việc mua bán do người được bạn ủy quyền quản lý, cho thuê xác lập, thực hiện được quy định tại Điều 142 của Bộ luật này như sau:
“1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.
2. Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện thì người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.
3. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
4. Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại”.
Không được bạn ủy quyền bán tài sản, có thể người này đã lừa dối người mua rằng đó là tài sản của họ. Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó. Về nguyên tắc, giao dịch này vô hiệu, không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Tuy nhiên, pháp luật dân sự cũng quy định về cơ chế bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay khi giao dịch dân sự vô hiệu. Cụ thể, theo Điều 133 của Bộ luật này “trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này”.
Nếu các máy móc thiết bị của bạn không thuộc tài sản phải đăng ký, người mua không biết người bán không có quyền bán, thì giao dịch mua bán đó có hiệu lực pháp luật.
Bạn không có quyền đòi lại số tài sản này từ người đã mua. Song, bạn có quyền khởi kiện người đã bán tài sản của bạn để đòi lại tài sản. Trường hợp không trả lại được tài sản bằng hiện vật, họ phải trả bằng khoản tiền tương ứng.
Luật sư HỒNG HẢI