“Một thời hoa lửa” của những nữ lái xe Trường Sơn
(PNTĐ) - Chúng tôi là những chiến sĩ trong Đại đội nữ lái xe Trường Sơn (tiền thân là Trung đội nữ lái xe Nguyễn Thị Hạnh) trở về từ trong bão lửa chiến tranh. Mỗi đồng đội của chúng tôi đều được ví như “những bông hồng sau tay lái”, từng viết lên những trang sử anh hùng cho con đường Trường Sơn lịch sử, trở thành một “hiện tượng phi thường” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.

“Căn buồng lái là buồng con gái”
Năm 1966-1968, Bộ Quốc phòng Mỹ tăng cường chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta. Không quân Mỹ dốc sức đánh phá nhằm ngăn chặn các tuyến giao thông vận tải chi viện cho miền Nam, đặc biệt chúng điên cuồng đánh phá suốt ngày đêm đường 12, trục vượt khẩu chủ yếu lên Tây Trường Sơn.
Trước tình hình đó, Đảng bộ Đoàn 500 (trực thuộc Bộ Tư lệnh 559) đã ra Nghị quyết “Tập trung lực lượng với số lượng cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm vào sâu các hướng chiến trường”, đồng thời, đưa ra một quyết định táo bạo, thành lập đơn vị nữ lái xe để hỗ trợ cho kho trạm thay cho lái xe nam ra trận. Đoàn 500 giao nhiệm vụ cho Binh trạm 9, Binh trạm 12 tuyển chọn gấp một số chị em từ thanh niên xung phong và bộ đội ở các binh trạm về đào tạo lái xe trong 45 ngày đêm, gồm 35 chị lái xe và 5 chị sửa chữa máy, điện thông thường.
Từ những miền quê khác nhau, 40 nữ Thanh niên xung phong tuổi từ 18 đến 20 đã gặp nhau trong khóa huấn luyện cấp tốc 45 ngày ở trường lái 255 (nay là trường Trung cấp Kỹ thuật xe - máy Sơn Tây) và trở thành những nữ lái xe chia lửa với đồng đội trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử.
Tất cả đều được biên chế vào một Trung đội độc lập mang tên Nữ Anh hùng Quân giải phóng miền Nam Nguyễn Thị Hạnh, trực thuộc Tiểu đoàn 204 Đoàn 500 đóng tại miền Tây giáp ranh với địa phận tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình do chị Phùng Thị Viên làm Đại đội trưởng.

40 người là 40 câu chuyện, 40 số phận. Đó là chị Nguyễn Thị Minh, quê gốc Hưng Yên sớm mồ côi cha mẹ, phải ở với người họ hàng ở Hà Tây. Năm 1965, chị tình nguyện tham gia Thanh niên xung phong, được phân về Binh trạm 9, đội 59 công trường 130 Yên Bái làm công việc mở đường, thông xe. Những ngày tháng sống cùng bom đạn, thấy các anh lái xe trên con đường vừa mới lấp hố bom, chị lại khao khát được “hành quân trên từng chuyến đi”.
Năm 1968, chị vui mừng khôn xiết khi nhận nhiệm vụ đi học lái xe và trở thành chiến sĩ bộ đội Trung đội nữ lái xe mang tên anh hùng Nguyễn Thị Hạnh (sau này, Bác Hồ gọi là Chiến sĩ gái lái xe Trường Sơn). Chị Nguyễn Thị Vân cũng mồ côi cha từ nhỏ, sớm mất mẹ phải sống với anh chị ở Hải Phòng. Chị Trần Thị Khoa quê Bắc Ninh không thể làm ngơ với cảnh tang thương ở quê hương đã cùng hơn 100 anh chị em lên đường đánh Mỹ…
Tháng 6/1966, tôi làm đơn tình nguyện đi bộ đội, đầu quân cho đơn vị tân binh huấn luyện 3 tháng ở Đoàn 9 Bộ Quốc phòng, sau đó được điều đi học cán bộ Chính trị 6 tháng rồi chuyển về Nhà máy Q151 Cục Quản lý xe máy, Tổng cục Hậu cần. Ở đây, tôi phụ trách phong trào công đoàn, rồi được điều động lên Ban Chính trị nhà máy, làm công tác tổ chức Đảng vụ. Năm 1972, tôi được điều sang làm cán bộ chính trị viên Trung đội Nguyễn Thị Hạnh.
Trong ký ức của tôi, hồi đó, ai cũng chỉ cao 1,50m đến 1,55m, chỉ có chị Nguyệt Ánh là cao nhất: 1,68m. Thế mà những chiếc xe tải như Zin, Gaz… sừng sững, nặng nề khiến ai cũng sợ phát ốm đều được các chị em chúng tôi “thuần phục”. Ngồi trên buồng lái, các chị đặt thêm một thanh gỗ phía sau đệm ghế để đẩy cao người hướng về phía trước, giữ chặt tay lái. Chỉ trong vòng hơn 1 tháng, những “con ngựa sắt” đó đã bị “thuần phục”, chuẩn bị lên đường tải đạn dược, lương thực và bộ đội vào chiến trường miền Nam.
Nhiệm vụ của Trung đội chúng tôi là chở hàng từ Vinh, Nghệ An và giao hàng tại các kho trạm trên tuyến đường 12, 18, 20, 22, nhận xe từ cửa khẩu biên giới phía Bắc bàn giao cho chiến trường miền Nam; chở thương binh, cán bộ từ miền Nam ra miền Bắc chữa bệnh, an dưỡng, học tập. Tuyến hoạt động chủ yếu là từ Bến Thuỷ đến Tây Trường Sơn, trong đó, có nhiều trọng điểm phải vượt qua như Đồng Lộc, Khe Ve, Long Đại, 050, Cổng Trời…
Đó là những nơi túi bom địch tàn phá ác liệt nhất, gần như 24/24. Hầu như, những tuyến đường đó đều ghi dấu chân những nữ chiến sĩ lái xe Trường Sơn chúng tôi. Chúng tôi ví Cổng Trời như “cửa tử”, bởi nó là túi bom, thường xuyên máy bay ném xuống cổng trời để cắt đứt mạch máu giao thông của ta. Cổng Trời dốc đứng, khó đi, đường trơn và rất nhỏ, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực thẳm hun hút.
Để đảm bảo an toàn và bí mật, đội xe chủ yếu hành quân ban đêm, xuất phát từ 17h chiều hôm trước, về đơn vị lúc 5h sáng hôm sau. Các chị phải đi trong đêm bằng ánh sáng mờ của “đèn rùa”, qua các điểm đánh kiểu huỷ diệt, người và xe có thể lao xuống vực hoặc nổ tung, sống và chết cách nhau một gang tấc. Chính vì thế, trước những chuyến đi, nhiều chị đã được đơn vị làm lễ “truy điệu sống”. Thế nhưng, vượt trên tất cả những khó khăn, gian khổ đó là lòng dũng cảm và sự mưu trí, các chị đã vượt qua hàng ngàn đêm như thế mà vẫn an toàn tính mạng, hơn thế còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Trong suốt thời gian từ khi thành lập đến năm 1973, Trung đội “tóc dài” Nguyễn Thị Hạnh đã vận chuyển được hàng vạn tấn hàng, hàng trăm ngàn bộ đội, thương binh vào Nam ra Bắc. Những chuyến hàng không ngại hiểm nguy, ngày đêm lăn bánh dưới đôi tay mềm yếu, nhưng chắc chắn kiên cường không kém gì nam giới. Dù hiểm nguy luôn chờ đón, rình rập, mặc “thần sấm”, “bà già”… của kẻ thù, những chuyến xe vẫn hiên ngang vượt qua những chặng đường, ghi lại dấu ấn ở những trận chiến cam go nhất của lịch sử, làm chấn động cả tuyến Trường Sơn.
Những chuyến xe chở hàng hóa, lương thực, bộ đội cũng “chở” luôn biết bao kỷ niệm. Các chị trên xe vừa là “thợ lái”, vừa là hộ lý, khiêng cáng thương binh. Có thương binh cụt cả hai đùi, không biết bám vào đâu, buộc phải cõng trên lưng, ngày đêm không nghỉ, cả đoàn xe đi đêm bằng đèn gầm qua Ngã ba Đồng Lộc, qua các đường địch bắn phá, thậm chí xe hỏng giữa đường, các chị lại là “thợ sửa chữa” di động để kịp thời giải phóng cho xe đi. Tóc các chị được chải bằng dầu mỡ của xe, “yêu xe như con, quý xăng như máu”, mùi nước hoa dính trên cơ thể, tay áo là mùi của khói, của xăng, ánh mắt các chị thay cho ánh đèn đường…
Những nghĩa tình đồng đội
Trung đội chúng tôi được coi là “trung đội đặc biệt có một không hai” bởi những nhiệm vụ đặc biệt được giao thời ấy. Trong kháng chiến, chúng tôi có những phong trào thi đua sôi nổi như Đầu xe Hồng Gấm, tay lái 8/3 (xe giữ lái đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn, đạt danh hiệu Đầu xe Hồng Gấm; tay lái “lụa” đạt danh hiệu tay lái 8/3). Các phong trào văn nghệ thơ ca rộn ràng, phong phú, không chỉ khiến cho cuộc sống của các nữ chiến sĩ thêm phần thú vị, mà còn giao lưu với nhân dân địa phương. “Tiếng hát át tiếng bom”, chúng tôi trao nhau tình yêu thương, cùng động viên nhau vượt qua khó khăn, bom đạn.

Sau này, đến tháng 2/1972, do yêu cầu nhiệm vụ đặc biệt, chị em chúng tôi được Bộ Tổng tham mưu Bộ Quốc phòng điều về Trường đào tạo lái xe D255 - Cục quản lý xe máy làm giáo viên dạy lái xe nữ. Ở vị trí công tác mới, bằng những bài học kinh nghiệm thực tế, chúng tôi đã truyền dạy cho 300 cô gái trở thành lái xe phục vụ cho các bệnh viện quân đội, kho xe, kho hàng thay cho lái xe nam ra trận.
Năm 1973, Bộ Quốc phòng tập trung các chị em lái giỏi về tập huấn duyệt binh ở Sân bay Bạch Mai, đến năm 1975, trong lễ duyệt binh mừng đất nước hoàn toàn giải phóng ở Quảng trường Ba Đình, đội hình duyệt binh có các chị em lái xe chỉ huy khối thông tin, khối nữ dân quân Quảng Bình…
Cuối năm 1975, nhiệm vụ hoàn thành, chúng tôi, có người trở về đơn vị, người chuyển ngành, người về địa phương và đồng ruộng. Chiến tranh đã qua đi, nhưng những khoảnh khắc cuộc đời trong những chuyến xe đã trở thành tiềm thức và niềm tự hào của những nữ lái xe Trường Sơn một thuở.
Số phận con người sau cuộc chiến cũng mỏng manh như tán lá giữa rừng, cũng như những phận gái giữa muôn trùng pháo sáng của địch. Các chị em chúng tôi vẫn kiên gan, viết tiếp lên những mốc son của cuộc đời, dù mốc son ấy - có đôi chút là nước mắt, là sự tủi thân, bất hạnh và những thiệt thòi. Trong số các chị trở về, chỉ có ba chị còn theo nghề lái xe, số còn lại, cầm chiếc bằng lái xe trên tay gõ cửa các cơ quan để xin việc, ai cũng lắc đầu bảo “con gái làm sao lái được xe”. Các chị cất gọn giấy tờ, kỷ vật vào một hộp kín, bươn chải đủ nghề kiếm sống qua ngày.
Thế nhưng, chúng tôi vẫn luôn đau đáu tìm gặp lại những người đồng đội cũ. Tôi luôn nhớ câu nói của chị Viên: “Đời có thể quên chúng mình, nhưng chúng mình đừng bao giờ quên và bỏ nhau”. Chúng tôi lần mò khắp các ngõ ngách của Hà Nội, vận động chồng cùng chung tay giúp đỡ, cuối cùng, cũng tìm được đồng đội của mình.
Ban Liên lạc Trung đội được thành lập, được sự thăm hỏi hỗ trợ của cá nhân, tập thể. Mỗi năm một lần, Ban liên lạc nữ lái xe Trường Sơn tổ chức gặp mặt ở số 1 Trấn Vũ, Nhà khách Bộ Quốc phòng, được nhiều lãnh đạo cấp cao thăm hỏi. Các chị được ông Đồng Sỹ Nguyên và Tổng cục Hậu cần, Cục Vận tải tặng mỗi người môt bộ quân phục để mặc khi gặp nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, các chị lại đi vận động, hoặc có tiếng nói đến các đoàn thể tại cơ sở địa phương nơi đồng đội đang sinh sống để hỗ trợ, giúp đỡ đồng nghiệp của mình. Giờ mọi người cũng đã bớt đi một phần khó khăn trong cuộc sống.
Ghi nhận những chiến công của những con người dũng cảm anh hùng, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, Huân chương Kháng chiến cho nhiều chị. Năm 2014, ghi nhận những chiến công và thành tích xuất sắc của Đại đội nữ lái xe Trường Sơn, Nhà nước đã phong tặng đơn vị danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đại đội trưởng Phùng Thị Viên (đã mất) được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong buổi gặp mặt với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết năm 2008, Chủ tịch nước nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp, hy sinh, tinh thần chiến đấu dũng cảm, ý chí sáng tạo, vượt khó của đơn vị nữ lái xe Trường Sơn. Các chị đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, xông pha nơi chiến trường, đi vào nơi làn tên mũi đạn, góp phần tạo cầu nối giữa các trận tuyến trong cuộc kháng chiến cứu nước thần thánh của dân tộc. Sự có mặt của các chị ở Trường Sơn những ngày máu lửa là một biểu hiện sống động, làm rạng danh phụ nữ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh”.