Phản bác âm mưu lợi dụng tôn giáo, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong kỷ nguyên mới

Kỳ 2: Chính sách tôn giáo ở Việt Nam: Sự thực làm thất bại luận điệu xuyên tạc

Chia sẻ

(PNTĐ) - Mặc dù các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng nhưng không thể thay đổi sự thật là Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới tôn giáo và công tác tôn giáo. Đảng luôn tạo cơ sở pháp lý và điều kiện cho đồng bào có đạo sinh hoạt tín ngưỡng, các tổ chức tôn giáo hợp pháp được tự do hành đạo, xây dựng cơ sở thờ tự, đào tạo chức sắc, mở rộng quan hệ đối ngoại..., kêu gọi, vận động đồng bào các tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo", "đồng hành cùng dân tộc" vì mục tiêu xây dựng đất nước ổn định về chính trị, phát triển toàn diện, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Kỳ 2: Chính sách tôn giáo ở Việt Nam: Sự thực làm thất bại luận điệu xuyên tạc - ảnh 1
Kỳ 2: Chính sách tôn giáo ở Việt Nam: Sự thực làm thất bại luận điệu xuyên tạc - ảnh 2

Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi ra đời năm 1930 đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau đó, Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, thu non sông về một dải. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta tiếp tục công cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kỳ 2: Chính sách tôn giáo ở Việt Nam: Sự thực làm thất bại luận điệu xuyên tạc - ảnh 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện thân mật với các đại biểu tôn giáo trong Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1960 

Trong từng giai đoạn lịch sử vẻ vang ấy, Đảng và Nhà nước ta luôn có những chỉ đạo kịp thời và sáng suốt về công tác tôn giáo.

Tại kỳ họp đầu tiên ngày 6/1/1946, ngay sau khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời được thành lập, Chủ tịch Hồ Chính Minh đã thay mặt Chính phủ tuyên bố: “tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”. Trên cơ sở đó, Quốc hội khóa I ngày 9/11/1946 đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam. Trong đó, Điều 6 và Điều 10 đã khẳng định: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”; “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp năm 1946 là sự khẳng định lập trường của Đảng, Nhà nước trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân, bước đầu làm thất bại các luận điệu xuyên tạc, âm mưu lợi dụng tôn giáo phục vụ ý đồ đen tối của thực dân Pháp và các thế lực phản động.

Kỳ 2: Chính sách tôn giáo ở Việt Nam: Sự thực làm thất bại luận điệu xuyên tạc - ảnh 4

Kiên định với lập trường đó, các chủ trương, chính sách của Đảng về đoàn kết tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần giữ ổn định tình hình an ninh chính trị, góp phần thuận lợi cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong công cuộc kháng chiến, giành độc lập, thống nhất đất nước năm 1975.

Bước vào giai đoạn đổi mới, phát triển đất nước, Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI) ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới đã đề cập đến 3 luận điểm quan trọng. Cụ thể: Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài; Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho tôn giáo hoạt động, gắn kết tôn giáo và các hoạt động của tôn giáo với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và củng cố khối đoàn kết toàn dân. Đây cũng là sự tăng cường hành lang pháp lý cho các hoạt động tôn giáo, hạn chế, phòng ngừa các hoạt động tôn giáo mang tính mê tín, lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, gây mất trật tự xã hội và an ninh, quốc phòng.

Tiếp đó, Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX 12/3/2003 về công tác tôn giáo đã tiếp tục kế thừa tinh thần đổi mới của Nghị quyết số 24-NQ/TW về vấn đề tôn giáo. Nghị quyết số 25 khẳng định việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín, dị đoan; không được ép buộc người dân theo đạo; nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nghị quyết cũng xác định đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.

Trên tinh thần Nghị quyết số 25, các văn kiện sau này của Đảng đã tiếp tục khẳng định quan điểm về  phát huy vai trò, các nguồn lực của tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016) nêu: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021) lần đầu tiên đề cập tới khái niệm “nguồn lực tôn giáo”: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc […] Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”.

Hiến pháp năm 2013, kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp năm 1992 tại Điều 24 cũng khẳng định rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn thống quan điểm, lập trường tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật...

Kỳ 2: Chính sách tôn giáo ở Việt Nam: Sự thực làm thất bại luận điệu xuyên tạc - ảnh 5

Theo Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam công bố năm 2023 cho thấy, Việt Nam có khoảng trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự. Nhà nước Việt Nam đã công nhận 36 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tôn giáo Baha'i,... cấp chứng nhận đăng ký hoạt động cho 04 tổ chức và 01 pháp môn tu hành, tất cả thuộc 16 tôn giáo. Trong đó Phật giáo chiếm số lượng nhiều nhất với trên 14 triệu tín đồ và 18.544 cơ sở thờ tự vào năm 2021. Công giáo có trên 7 triệu người theo và 7.771 cơ sở thờ tự. Đạo Tin Lành và đạo Cao Đài lần lượt xếp thứ ba và thứ tư về số lượng tín đồ.

Một đặc điểm nổi bật của tôn giáo ở Việt Nam là sự đa dạng về nguồn gốc và các quan hệ quốc tế. Về nguồn gốc, ngoài bộ phận tín ngưỡng bản địa vốn gắn chặt với tộc người và một số tôn giáo nội sinh thời cận hiện đại, các tôn giáo còn lại, là các tôn giáo lớn, mang tính chủ lưu, đều có nguồn gốc nước ngoài. Thời cổ đại, Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo truyền đến Việt Nam từ Ấn Độ và Trung Hoa. Thời trung đại, Islam giáo, Công giáo, Tin Lành và nhiều loại hình tôn giáo khác đến Việt Nam từ Châu Âu, Châu Mỹ… hiện đều thuộc hệ thống 16 tôn giáo được nhà nước chính thức công nhận. Thêm vào đó, còn có các phong trào tôn giáo mới trên thế giới cũng đến Việt Nam (Nhất quán đạo, Sáng giá học hội-Soka Gakai, Giáo hội cách Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô, Chứng nhân Jê-hô-va…), dù trong số đó còn có những loại hình chưa được cấp đăng ký hoạt động.

Như vậy, hầu hết các dạng thức tôn giáo mà nhân loại từng biết đều hiện diện ở Việt Nam, dù có sự khác nhau về quy mô cộng đồng và số lượng tín đồ. Điều này cho thấy, luận điệu Nhà nước “đàn áp tôn giáo”, “hạn chế tôn giáo” là hoàn toàn không có cơ sở.

Khi Việt Nam tiến hành đổi mới, mở cửa đất nước, các hoạt động quan hệ quốc tế của tôn giáo, đặc biệt là của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước hợp pháp hóa càng được tạo điều kiện thuận lợi hơn bao giờ hết. Cũng theo Sách trắng do Ban Tôn giáo chính phủ ấn hành năm 2023, kể từ năm 2011 đến 2023, đã có gần 2.000 lượt cá nhân tôn giáo xuất cảnh vì mục đích tôn giáo (đi tham gia các khóa đào tạo; dự hội nghị…); gần 500 đoàn khách nước ngoài với hơn 3.000 lượt người vào Việt Nam vì mục đích tôn giáo. Các hoạt động đối ngoại tiêu biểu của tôn giáo ở Việt Nam có thể kể ra như tham gia các Đối thoại liên tôn giáo Á-Âu (ASEM); tổ chức các sự kiện tôn giáo quốc tế như Hội nghị liên hội đồng giám mục Á Châu (2012); Tổng hội dòng Đa minh thế giới (2019); Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc (VESAK)...

Cộng đồng các tôn giáo trong nước cũng khẳng định luôn được Đảng, chính quyền Thành phố tạo mọi điều kiện để sinh hoạt tôn giáo thuận lợi. Hoạt động tín ngưỡng tôn giáo được thực hiện theo Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo.

 Tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội các Giáo xứ và các họ giáo đều được tạo mọi điều kiện trong xây dựng các công trình phục vụ nơi thờ tự khang trang, sạch đẹp, bảo đảm việc hành lễ giảng đạo của giáo dân được trang nghiêm, thuận tiện, an toàn. Nhà giáo lý xứ Mỹ Thượng, xã Hữu Văn; nhà giáo lý xứ Tân Hội, xã Tân Tiến; nhà giáo lý xứ Đại Ơn, xã Ngọc Hòa; nhà giáo lý Lam Điền, xã Lam Điền... được đầu tư xây dựng với kinh phí hoàn thiện nhiều tỷ đồng.

Tại huyện Đông Anh, Hà Nội, Nhà nước đầu tư xây dựng Nhà giáo lý với kinh phí trên 1,2 tỷ đồng cho đồng bào Công giáo Giáo Họ Mai Châu, thôn Mai Châu, xã Đại Mạch. Tại thôn Đại Bằng, xã Nguyên Khê, Nhà thực hành giáo lý của giáo dân cũng được Đảng, Nhà nước quan tâm, đầu tư nâng cấp với sức chứa 1.000 người. 

Tại huyện Mỹ Đức, Hà Nội, Nghĩa Ái là thôn Công giáo toàn tòng thuộc xã Hợp Thanh, huyện Mỹ Đức, thời gian qua cũng được Nhà nước quan tâm tạo cơ sở pháp lý và điều kiện để các giáo dân sinh hoạt tín ngưỡng thuận, các tổ chức tôn giáo hợp pháp được tự do hành đạo, xây dựng cơ sở thờ tự...

Nhìn trên bình diện rộng, đến nay, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo trên cả nước đã được Nhà nước quan tâm đầu tư sửa chữa, đồng thời có hàng nghìn cơ sở thờ tự được xây mới. Đảng, Nhà nước cũng quan tâm tới việc mở trường đào tạo chức sắc. Phật giáo đã có 4 học viện; Công giáo đã có 7 Đại chủng viện và 1 phân hiệu; Tin lành có 2 Viện Thánh kinh thần học và Học viện Thần học… 

Tại các địa phương, đồng bào theo các tôn giáo còn được chính quyền các cấp tạo điều kiện để “đồng hành cùng dân tộc”, thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp sức xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội từ đó mở rộng uy tín, ảnh hưởng của tôn giáo mình. 

 

Tin cùng chuyên mục

Kỳ 1: Vạch trần âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam

Kỳ 1: Vạch trần âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam

(PNTĐ) - Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các tôn giáo ở Việt Nam luôn đoàn kết, đồng hành cùng dân tộc, tích cực đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc, tín đồ tôn giáo đã “sống tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết tôn giáo. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) cũng khẳng định vai trò nguồn lực tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Đảng nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”.