Thúc đẩy bình đẳng giới: Từ nghị trường tới những bước tiến vượt bậc trong thực tiễn

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới

HOÀNG LAN - HỒNG NHUNG
Chia sẻ

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 1

Công tác phụ nữ và bình đẳng giới luôn là mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội. Đồng hành cùng dân tộc, Quốc hội Việt Nam các khóa đã không ngừng đổi mới, khẳng định vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước, quan tâm thông qua nhiều bộ luật nhằm phát huy vai trò, vị thế của phụ nữ, tạo mọi điều kiện để phụ nữ được phát triển toàn diện, qua đó xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh và bền vững.

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 2

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng phụ nữ đã thể hiện rõ tầm nhìn vượt thời đại, tư duy chính trị của Người và luôn là những định hướng quan trọng cho công tác bình đẳng giới ở nước ta hiện nay.

Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nhấn mạnh, phụ nữ chiếm số đông trong lực lượng nhân dân, lại bị kìm hãm và chịu nhiều đau khổ nên luôn có tinh thần đấu tranh cách mạng. Sự nghiệp cách mạng không thể thành công nếu không có phụ nữ tham gia. Theo Người, "nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa".

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tiên phong thực hiện tư tưởng đó gắn với những việc làm cụ thể. Bác khẳng định, phụ nữ có quyền tham gia mọi hoạt động chính trị một cách bình đẳng như nam giới, có quyền bầu cử, ứng cử, có quyền tự do ngôn luận, đi lại, cư trú và nhất là quyền bình đẳng trước pháp luật. Hiến pháp đầu tiên của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 mà Người là Trưởng Ban soạn thảo ghi rõ: "Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa" (Điều 6);  "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" (Điều 9)... Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam được pháp luật thừa nhận và bảo đảm có những quyền bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực.

Không chỉ khẳng định vị thế của phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan tâm khích lệ, động viên phụ nữ tự tin, nỗ lực vươn lên, phát huy khả năng để đóng góp cho xã hội. Người căn dặn: "Phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại; phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật" và "Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh".

 
Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 4

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) nêu rõ: “Thiết thực chăm lo sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ...” đến Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) tiếp tục nhấn mạnh: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người”. Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) tái khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng”. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2021) một lần nữa khẳng định chủ trương: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới... Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới”.

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 5
Các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đều nhấn mạnh mục tiêu nâng cao trình độ mọi mặt, đời sống vật chất, tinh thần, thiết thực chăm lo sự tiến bộ của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới

Nhiều Nghị quyết, chỉ thị của Đảng cũng đã đưa vào các khái niệm “công tác vận động phụ nữ”, “công tác cán bộ nữ” như Nghị quyết 153 của Ban bí thư TW Đảng (năm 1967) về Công tác cán bộ nữ đã chỉ đạo việc đề bạt, sử dụng cán bộ nữ; Nghị quyết số 04/NQ-TƯ ngày 12-7-1993 của Bộ chính trị về Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới đã khẳng định “Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình”.

 
Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 6
 

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện như Nghị quyết số 57/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới nhằm tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo; Kế hoạch số 2543/KH-BNV ngày 18/7/2013 của Bộ Nội vụ về Kế hoạch triển khai Nghị định số 56/NĐ-CP.

Đặc biệt, hệ thống văn bản pháp luật về bình đẳng giới tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế của đất nước nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ, nam giới và nhóm dễ bị tổn thương.

Rõ nét là việc Quốc hội đã thông qua Luật Bình đẳng giới ngày 29/11/2006. Luật đã có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 gồm 6 Chương với 44 Điều. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm nam và nữ có cơ hội ngang nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.

Mục tiêu của Luật nhằm xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. 

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 7
Quốc hội luôn quan tâm đến công tác bình đẳng giới

Hay như Bộ luật Lao động; Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật phòng chống Bạo lực gia đình, Luật Bảo hiểm xã hội... được Quốc hội thông qua và có hiệu lực cũng đều được lồng ghép giới...

Chẳng hạn, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014 quy định phụ nữ được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội như: Chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, mất sức lao động... Bên cạnh đó, Luật còn quy định quyền lợi mang tính đặc thù đối với người phụ nữ như: Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai (nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp), nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ...

Bộ luật Lao động - Bộ luật số 45/2019/QH14 ngày 20/11/2019 quy định: Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ; cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ.

Luật Hôn nhân và gia đình - Luật số 52/2014/QH13 ban hành ngày 19/06/2014 cũng khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ...

Bộ luật Hình sự - Luật số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 đã thể chế hoá nhiều quy định của Hiến pháp về quyền con người, quy định những tội phạm liên quan đến phụ nữ, các điều luật bảo vệ quyền của phụ nữ...

Quốc hội cũng quan tâm đẩy mạnh việc thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong đề nghị Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và trong các dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội thông qua. Ngoài ra, trong quá trình xem xét quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội cũng luôn chú trọng tới các vấn đề giới, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

 

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 8
Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 9

Có thể thấy, vai trò của Quốc hội, Nhà nước đã không chỉ tạo ra sự thống nhất trong hệ thống cơ quan chức năng mà còn khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội trong thúc đẩy bình đẳng giới trong thực tiễn. Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, trong phiên thảo luận kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, bình đẳng giới, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cũng đánh giá nhận thức về bình đẳng giới trong cán bộ, người dân ngày càng chuyển biến tích cực. Mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ, chia sẻ giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ngày càng được gắn kết, củng cố.

Theo PGS.TS. Trần Quang Tiến, Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam, có thể thấy, với những nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, toàn xã hội và chính bản thân phụ nữ, công tác phụ nữ ở Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào thành tựu của đất nước sau gần 40 năm đổi mới. Nhận thức về vai trò, vị trí của phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới có chuyển biến tích cực. 

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 10

Sau khi Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Lao động... được Quốc Hội thông qua, vị trí và vai trò của phụ nữ Việt Nam trong xã hội ngày càng được nâng lên, tôn trọng, bảo vệ... phản ánh sự tiến bộ trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và phát triển toàn diện con người ở Việt Nam. Từ những vai trò truyền thống trong gia đình, phụ nữ Việt Nam đã mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ra nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong kinh tế, chính trị và xã hội.

Theo PGS.TS, Phó Viện trưởng Viện Xã hội học Nguyễn Đức Chiện và cộng sự, với cơ sở hệ thống pháp luật tiến bộ, hiện nay, người phụ nữ đã có nhiều cơ hội tham gia đóng góp và thụ hưởng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, giáo dục, thể thao... Đặc biệt, sự tham gia và thụ hưởng của phụ nữ trong cuộc sống gia đình và xã hội không chỉ đóng góp vào ổn định hạnh phúc gia đình mà còn góp phần gia tăng sản xuất tăng trưởng kinh tế của gia đình và đất nước. 

Trên lĩnh vực chính trị, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội ngày càng tăng. Nhìn lại lịch sử 80 năm Quốc hội Việt Nam có thể thấy, tại Quốc hội khóa I (1946-1960) mới có có 3% đại biểu nữ thì đến Quốc hội khóa IV (1971-1975), đã có 29,76% đại biểu nữ. Đến kỳ họp Quốc hội khóa XIV (2016-2021) tỷ lệ này đạt 26,72%, tăng hơn nhiệm kỳ trước 2,62%; Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV đạt 30,26% cao hơn mức trung bình của thế giới và khu vực. Lần đầu tiên trong lịch sử Quốc hội Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội khóa XIV là nữ.

Tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ Đảng các cấp trong các nhiệm kỳ đều tăng. Nhiệm kỳ 1999-2004, tỷ lệ đại biểu nữ tham gia Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tăng từ 21,57% lên 26,54%. Nhiệm kỳ 2016 - 2021, tỷ lệ đại biểu nữ tham gia Hội đồng nhân dân cấp huyện đạt 27,85%, cấp xã 26,59%. Theo Báo cáo Kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2024, tính đến cuối năm 2024, 13/22 bộ, cơ quan ngang bộ có nữ là lãnh đạo chủ chốt, chiếm 59%; 1/8 cơ quan thuộc Chính phủ có nữ là lãnh đạo chủ chốt, chiếm 12,5%; 48/63 chính quyền địa phương cấp tỉnh có lãnh đạo chủ chốt là nữ, tăng 2% so với năm 2023.Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 11

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 12
Đại biểu nữ chiếm tỷ lệ cao trên nghị trường kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Trên các lĩnh vực khác có thể thấy khoảng cách giới trong tất cả các cấp giáo dục được thu hẹp; hệ thống dịch vụ hỗ trợ người bị bạo lực giới được mở rộng và nâng cao chất lượng; vai trò, vị thế của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế được nâng cao, ngày càng có nhiều gương mặt nữ doanh nhân và nữ giám đốc điều hành tiêu biểu của Việt Nam được các diễn đàn kinh tế thế giới ghi nhận và tôn vinh. Nhiều nữ sỹ quan đã tham gia Lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc đã chứng tỏ năng lực tiềm tàng của phụ nữ và khi phụ nữ được phát huy vai trò, họ có thể đáp ứng được bất kỳ nhiệm vụ nào.

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 13

Theo Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2024 do Diễn đàn kinh tế thế giới công bố, chỉ số xếp hạng về bình đẳng giới của Việt Nam năm 2024 đứng thứ 72/146 quốc gia, tăng 11 bậc so với năm 2022.

Việt Nam được đánh giá là một trong 10 quốc gia thực hiện tốt nhất mục tiêu số 5 về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc.

Các thành tựu về bình đẳng giới đã góp phần nâng cao vai trò, uy tín và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Ngày 09/4/2024, Việt Nam đã được bầu vào Hội đồng Chấp hành cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025 - 2027. Sự kiện này thể hiện thể hiện sự ghi nhận và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với các các chính sách, thành tựu về thúc đẩy bình đẳng giới và nỗ lực hợp tác quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực này, đồng thời tin tưởng Việt Nam sẽ đóng góp tích cực vào công tác điều hành của UN Women trong thời gian tới.

Như vậy, kể từ tháng 01/2025 đến hết năm 2027, Việt Nam sẽ tham gia điều phối xây dựng và triển khai các định hướng lớn của Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ, bảo đảm các chiến lược và hoạt động của cơ quan này nhất quán với các mục tiêu và chính sách tổng thể của Liên Hợp Quốc về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ.

Kỳ 1: Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới công tác bình đẳng giới - ảnh 14

Bên lề nghị trường kỳ họp 7, Quốc hội khóa XV, đại biểu Lương Xuân Cừ, Đoàn đại biểu Quốc hội Hà Nội cũng bày tỏ sự ấn tượng về những bước tiến Việt Nam đã đạt được. Theo đại biểu, lĩnh vực bình đẳng giới đã và đang ngày càng nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ.

"Chúng ta thấy rằng các cán bộ chủ chốt nữ trong cấp ủy, chính quyền địa phương cơ bản đã đạt được theo chỉ tiêu đề ra và có những cấp có những vấn đề mang tính đột biến. Đây là một quyết tâm rất lớn và đó cũng là chỉ tiêu hết sức quan trọng, cốt lõi và cơ bản nhất. Bởi từ công tác chính trị, sự lan tỏa, lãnh đạo, chỉ đạo và quan tâm tới cán bộ nữ được cụ thể hóa hơn và sẽ hiệu quả hơn", đại biểu Lương Xuân Cừ chia sẻ.

 

Tin cùng chuyên mục

Hà Nội: Đảm bảo ổn định thị trường trong dịp cuối năm và Tết Nguyên đán

Hà Nội: Đảm bảo ổn định thị trường trong dịp cuối năm và Tết Nguyên đán

(PNTĐ) - Chiều 5/12, Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Vũ Minh Tuấn đã chủ trì Hội nghị thông tin chuyên đề và giao ban triển khai nhiệm vụ trọng tâm công tác báo chí thành phố tháng 12-2025. Tại Hội nghị, Phó Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội Nguyễn Thế Hiệp đã báo cáo về công tác đảm bảo cung cầu hàng hóa, ổn định thị trường trong dịp cuối năm 2025 và Tết Nguyên đán Bính Ngọ 2026.
Tôn vinh Doanh nhân-doanh nghiệp Thăng Long 2025

Tôn vinh Doanh nhân-doanh nghiệp Thăng Long 2025

(PNTĐ) - TS Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội thông tin về Lễ Tôn Vinh Doanh Nhân - Doanh Nghiệp Thăng Long 2025 với chủ đề “Kỷ nguyên mới-Hào khí Thăng Long-doanh nhân tiên phong” sẽ được tổ chức ngày 28/12/2025 tại Hà Nội.
“Đánh thức tiềm năng” vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

“Đánh thức tiềm năng” vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

(PNTĐ) - Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, Hà Nội, mảnh đất trăm nghề với nhiều nghề, làng nghề truyền thống có bề dày lịch sử hàng trăm năm và có danh tiếng từ lâu đời. Đối với các xã vùng đồng bào DTTS và MN có 16 làng nghề gồm có 5 làng nghề truyền thống và 11 làng nghề tập trung tại huyện Ba Vì (cũ) đa phần là làng nghề làm thuốc Nam và làng nghề sản xuất, chế biến chè. Bên cạnh đó các xã vùng đồng bào DTTS và MN còn có nhiều tiềm năng, lợi thế để khai thác, phát triển du lịch.
Đưa chuyển đổi số về từng tổ dân phố

Đưa chuyển đổi số về từng tổ dân phố

(PNTĐ) - Với cách làm sáng tạo, phường Tây Tựu (Hà Nội) đã đưa công nghệ đến từng ngõ phố, từng hộ dân. Các mô hình “Bình dân học vụ số” đã thổi bùng tinh thần học tập, góp phần hình thành thói quen sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thanh toán không tiền mặt, hướng tới mục tiêu xây dựng chính quyền điện tử, xã hội số từ cơ sở.