BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH

HOÀNG LAN - HỒNG NHUNG
Chia sẻ

(PNTĐ) - Mất cân bằng giới tính khi sinh, hay tỷ số giới tính khi sinh cao, đang trở thành một vấn đề xã hội nghiêm trọng. Ở Việt Nam, tình trạng này đang gia tăng và có nguy cơ gây ra nhiều hệ lụy tới cấu trúc dân số, gia đình và sự phát triển bền vững quốc gia.Bình đẳng giới được xem là chìa khóa để giải quyết vấn đề này.

Bài 1: Mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng nghiêm trọng

Tỷ số giới tính khi sinh về lý thuyết phản ánh sự cân bằng tự nhiên giữa trẻ trai và trẻ gái khi ra đời, theo chuẩn mực sinh học ở mức 104-106 bé trai/100 bé gái. Tuy nhiên, trên thực tế, ở Việt Nam, tỷ số này đang vượt quá 106 phản ánh những can thiệp có chủ ý trên khía cạnh về giới.

Những nỗi buồn vì tư tưởng “trọng nam khinh nữ”

“Tôi được sinh ra trong một gia đình thuộc vùng ngoại ô của thành phố Hà Nội. Nhà tôi có bốn người, bố mẹ tôi sinh được hai con gái là tôi và em gái tôi. Chắc hẳn đọc đến đây, nhiều người sẽ có ý nghĩ sao bố mẹ tôi không cố để kiếm thêm “thằng cu” nhỉ?”. Đó cũng là câu nói ám ảnh cả tuổi thơ của tôi. Dù ở Hà Nội nhưng lại thuộc vùng ngoại ô nên xung quanh tôi vẫn còn những định kiến, hủ tục về chuyện sinh con trai, sinh con gái, hay con gái phải như thế này, thế kia.

BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH - ảnh 1
Tỷ số giới tính khi sinh giai đoạn 2021-2024 (Tổng cục Thống kê).

Bố tôi vốn là một người dễ tính, nhưng sống trong môi trường còn những hủ tục, những định kiến làm suy nghĩ của một người đàn ông thuần nông của bố dần thay đổi. Những lúc còn nhỏ, chuyện sinh con trai được bố nhắc nhiều và liên tục với mẹ đến nỗi nó ăn hằn sâu tiềm thức của cả tôi và đứa em gái kém tôi 5 tuổi. Gánh nặng việc sinh đẻ con trai càng đè nặng lên vai mẹ tôi khi các anh em của bố đều sinh được con trai”.

Ngô Thị Linh Chi, nữ sinh viên hiện đang học tại Đại học Tài nguyên và Môi trường đã từng có một tuổi thơ bị ám ảnh bởi tư tưởng “trọng nam khinh nữ” như thế.

BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH - ảnh 2
Linh Chi và em gái đã có một tuổi thơ bị định kiến giới đeo bám (Ảnh: NVCC)

Linh Chi nhớ lại: “Cuộc sống của gia đình tôi bắt đầu nặng nề và ít tiếng cười dần vì ý định sinh thêm con trai của bố tôi. Ở quê tôi, cứ cuối năm tất cả các con trai trong họ sẽ tập trung lại rồi ăn uống, các ông các bà gọi đó là “ăn họ”. Buổi tụ họp cuối năm này cũng là nỗi ám ảnh của bố. Bởi lẽ, những ai sinh được con trai thì sẽ được ngồi một mâm riêng. Điều này được bố tôi coi là nỗi xấu hổ của ông với cả họ. Nếu cuối năm là lúc cả nhà sum vầy, ấm cúng để cùng nhau đón năm mới thì bố tôi lại mặt nặng, mặt nhẹ vì vấn đề con cái khi đi ăn họ về. Với suy nghĩ của đứa trẻ còn học cấp 1, cấp 2 lúc ấy bản thân tôi không biết diễn tả cảm giác của mình ra sao, chỉ biết là nó rất buồn, thật sự là rất buồn và tôi đã khóc rất nhiều. Lớn hơn 1 tí thì tôi biết lúc đó mình khóc vì tủi thân, vì giận hờn, tự hỏi tại sao bố phải cần thêm một đứa con nữa? Chính vì điều đó mà bố tôi bắt đầu trở nên khó tính, cáu gắt và lạnh lùng với cả ba mẹ con tôi...”.

Câu chuyện buồn thời ấu thơ của Linh Chi xuất phát từ định kiến giới không hiếm, chỉ là không phải bạn gái trẻ nào như Linh Chi cũng có đủ dũng cảm công khai tình trạng bất bình đẳng giới tồn tại ngay trong gia đình mình. Ngoài kia, vẫn còn nhiều em gái khác đang âm thầm chịu đựng cảm giác bị phân biệt đối  xử và lớn lên với câu hỏi: “Vì sao con gái lại không được coi trọng như con trai? Giới tính có phải là yếu tốt để quyết định vị thế, thứ bậc của con người?”.

BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH - ảnh 3
Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thừa nam giới độ tuổi từ 20-39 dựa trên các kịch bản khác nhau của tỷ số giới tính khi sinh, dự đoán cho giai đoạn 2019-2029. 

Nhưng, Linh Chi tâm sự: Nỗi buồn của em có lẽ còn rất nhỏ so với những gì mà mẹ em từng phải chịu đựng. “Khi mẹ chỉ sinh được con gái, nhiều người nói với mẹ “Sao không đẻ đi?”, “Còn trẻ thì cố nốt lấy thằng cu”… hay vô vàn những lời nói với mẹ mà lúc đấy có cả bố ngồi đấy. Bố thấy mọi người đều khuyên mẹ như vậy thì ông luôn cho rằng việc ông đòi hỏi 1 đứa con nữa là điều hiển nhiên và luôn đúng. Ấy vậy mà có ai chịu hiểu cho mẹ - người đàn bà nhỏ bé đấy đâu. Mẹ vất vả sinh hai chị em tôi bằng phương pháp mổ đẻ. Mẹ kể đợt đẻ tôi bà vỏn vẹn chỉ 39kg, vết mổ đau đớn làm bà tưởng chừng sẽ không bao giờ mang thai nữa. Đến khi mang thai em tôi, vì đã mổ lần 1 nên đứa con thứ 2 bắt buộc phải đẻ mổ tiếp, lại phải đau đớn tiếp. Nghe mẹ kể mà tôi nhói tim vì thương mẹ vô cùng. Mẹ còn phải chịu đựng rất nhiều lời nói ra nói vào khi mẹ siêu âm em tôi là em gái, thậm chí người trong gia đình nội tôi còn che miệng: “Thế là đẻ được một lũ con gái”. Tất cả những gì mẹ chịu đựng liệu có ai thật sự thấu cho nỗi đau của mẹ. Chính vì thế mẹ sợ phải sinh thêm lần 3, vì mẹ biết sức khỏe của mẹ không cho phép. Chính vì bất đồng quan điểm đó mà đỉnh điểm có 1 lần bố mẹ tôi đã cãi nhau rất lớn, bố đánh mẹ và hai người đã nhắc đến việc li dị…”.

BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH - ảnh 4
Nhiều phụ nữ cũng cảm thấy mệt mỏi do bị người thân thúc giục phải sinh được con trai. (Ảnh: AI)

Chắc chắn, nhiều chị em phụ nữ khác cũng có sự đồng cảm với mẹ của Linh Chi. Chị Vũ Trang Anh, ở phường Tây Hồ chia sẻ: Sức khỏe yếu, đường sinh nở cũng lận đận nên ngoài 30 tuổi chị mới sinh được 1 bé gái. Những ngày gần đây, bố mẹ hai bên luôn vận động chị sinh thêm em bé nữa, nhưng phải “ra con trai” để gia đình sau này có người nối dõi tông đường. Ngay cả đồng nghiệp của chị cũng khuyên chị nên sử dụng các phương pháp để sinh con trai vì cho rằng, phụ nữ sinh được con trai cho nhà chồng sẽ được nể trọng hơn.

Chị Hoàng Thị Hoa, ở phường Đông Ngạc đã có hai con gái, nhưng vì chồng chị là con trai duy nhất, nên bố mẹ chồng và chồng chị cũng giục chị sinh thêm con trai. Chị thì cho rằng hai con gái ngoan, học giỏi là đủ, nhưng chưa thể thay đổi tư duy và quan điểm của nhà chồng. “Tôi đồng ý sinh thêm con cho vui cửa, vui nhà nhưng để tự nhiên mà không đồng ý áp dụng biện pháp lựa chọn giới tính khi sinh. Vì vậy, khi sinh con thứ ba vẫn là gái, bố mẹ chồng tôi viện lý do sức khoẻ yếu để không lên thành phố hỗ trợ hai vợ chồng chăm sóc các cháu”, chị tủi thân cho biết.

Không cần tới những hành vi bạo hành thể xác, chính những ẩn ý, thái độ trông ngóng có con trai, cả tiếng thở hắt ra khi không đạt được ý nguyện... của những người thân trong gia đình đã khiến nhiều chị em bị tổn thương sâu sắc. Nhiều chị bị đẩy vào tình thế “không sinh được con là mang tội” với nhà chồng dù lỗi không phải do các chị.

Hệ lụy của việc mất cân bằng giới tính

Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, cũng đã trở thành vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm, đưa ra nghị trường của kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV. Theo đại biểu Trần Khánh Thu (Thái Bình), tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn chưa giảm, không có thay đổi tích cực từ năm 2011 đến nay, cũng như khó đạt được mục tiêu đề ra vào năm 2025. Điều này có thể ảnh hưởng đến cơ cấu dân số Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giới. Đại biểu Hoàng Thị Thu Hiền (Nghệ An) cũng cho rằng, tốc độ gia tăng chênh lệch giới tính khi sinh ở Việt Nam chưa ổn định và vẫn cao hơn mức cân bằng tự nhiên. Vì vậy, cần nhận diện bình đẳng giới một cách thực chất hơn nữa và chênh lệch giới tính khi sinh tăng cao là biểu hiện rõ nhất của bất bình đẳng giới.

BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH - ảnh 5
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh cũng đã trở thành vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm, đưa ra nghị trường của kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Tháng 4 năm 2025, tại hội thảo công bố báo cáo quốc gia về đăng ký và thống kê hộ tịch đầu tiên giai đoạn 2021 - 2024 được tổ chức tại Hà Nội, báo báo do Cục Thống kê xây dựng trên cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, với sự hỗ trợ hiệu quả của Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA) và Tổ chức Y tế công cộng toàn cầu được công bố đã cho thấy tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn còn tồn tại và kéo dài trong nhiều năm tại Việt Nam, vượt xa mức cân bằng là 104-106 bé trai/100 bé gái.

Theo Thạc sĩ, bác sĩ Phạm Hồng Quân - Trưởng phòng Cơ cấu và Chất lượng dân số, Cục Dân số – Bộ Y tế: Việt Nam từ gần 20 năm trước có tỷ số giới tính khi sinh là 109,8 bé trai/100 bé gái, cao hơn so với mức bình thường là 104-106 bé trai/100 bé gái. Đến năm 2024, tỷ số này vẫn ở mức 111,4 bé trai/100 bé gái.

Từ góc nhìn thực tiễn tại cơ sở y tế, bác sĩ Phan Huyền Thương - Phó Giám đốc Trung tâm Can thiệp bào thai, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội – một trong những bệnh viện có số ca sinh lớn nhất miền Bắc (hơn 40.000 ca sinh mỗi năm) cho biết: theo thống kê mới nhất vào tháng 9/2025, tỷ lệ bé trai sinh ra chiếm khoảng 60%, bé gái chiếm 40%. Con số này cho thấy xu hướng sinh nhiều bé trai vẫn đang tiếp diễn và có xu hướng tăng qua thực tế ghi nhận ở bệnh viện.

BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH - ảnh 6
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn đang có xu hướng tăng qua thực tế ghi nhận tại các bệnh viện (ảnh minh họa)

Ghi nhận trước thời điểm 1/7/2025 cho thấy, tỉ số giới tính khi sinh ở mức cao diễn ra phổ biến ở một số tỉnh, thành thuộc khu vực phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Giang, Hải Dương, Sơn La, Lạng Sơn, Phú Thọ.... Thậm chí, có địa phương ghi nhận tỉ số giới tính khi sinh ở mức gần 120 bé trai/100 bé gái. Khu vực Đông Nam Bộ (bao gồm cả TP. Hồ Chí Minh) có tỷ số giới tính khi sinh là 110; khu vực Duyên hải miền Trung là 108,9. Trên cả nước chỉ có 2 khu vực là Đồng bằng Sông Cửu Long và Tây Nguyên có tỷ số giới tính khi sinh thấp gần bằng tỷ số giới tính sinh tự nhiên (107,2 và 106,5). Lý do hai khu vực này có tỷ số giới tính khi sinh gần bằng tỷ số giới tính sinh tự nhiên là do yếu tố dân tộc và chế độ mẫu hệ quyết định, Đồng bằng sông Cửu Long tập trung nhiều đồng bào dân tộc Chăm, Khmer, còn khu vực Tây Nguyên là người đồng bào Ê- đê, Gia Rai cho nên nữ giới có vai trò trong gia đình và dòng họ. Vì vậy, họ không có nhu cầu lựa chọn giới tính thai nhi.

BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH - ảnh 7
Mất cân bằng giới tính khi sinh để lại nhiều hậu quả. (Ảnh minh hoạ)

Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ gây ra nhiều hậu quả. Theo tính toán vào năm 2034, Việt Nam sẽ thừa khoảng 1,5 triệu nam giới trong độ tuổi từ 15-49 và có thể tăng lên khoảng 2,5 triệu (UNFPA, 2020), có nghĩa sẽ có tương đương số nam giới khó tìm kiếm được vợ, đối mặt với tình trạng “độc thân cưỡng bức” dẫn đến cấu trúc gia đình bị ảnh hưởng gây ra gánh nặng cho hệ thống an sinh xã hội do những người này không có người chăm sóc.

TS. Nghiêm Thị Thủy và ThS. Nguyễn Thị Huyền Giang, Viện Xã hội học và Tâm lý học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam nhấn mạnh: Hiện nay với tốc độ đô thị hóa, thanh niên nói chung và nữ thanh niên nói riêng sẽ di cư đến các thành phố lớn, các khu công nghiệp để tìm kiếm cơ hội phát triển bản thân. Vì vậy, ở khu vực nông thôn, nơi điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn người dân thấp thì nam giới ở những khu đó cơ hội tìm kiếm bạn đời khó hơn so với các nhóm nam giới ở khu vực thành thị, có điều kiện và trình độ học vấn cao. Cho nên gây ra tình trạng khủng hoảng hôn nhân cho nam giới.

Tình trạng thiếu nữ giới còn có nghĩa là mức sinh giảm và Việt Nam đang bắt đầu giai đoạn già hóa dân số. Điều này ảnh hưởng tới tổng tỷ suất sinh, gây ra tình trạng thiếu lực lượng lao động trong tương lai. Khi tình trạng thiếu phụ nữ sẽ là nguyên nhân gây ra tệ nạn mua bán phụ nữ và trẻ em gái. Tăng nguy cơ bạo lực trên cơ sở giới và tệ nạn xã hội như nhu cầu sinh lý của nam giới không được đáp ứng dẫn đến các nguy cơ bạo lực đối với phụ nữ, xâm hại tình dục, quấy rối tình dục ... đối với phụ nữ và trẻ em gái.

Bên cạnh đó, với sở thích con trai còn tồn tại dai dẳng trong xã hội và gia đình dẫn đến căng thẳng tâm lý cho phụ nữ dẫn đến quyết định không lập gia đình hoặc nạo phá thai để lựa chọn giới tính thai như theo mong muốn.

Có thể thấy, mất cân bằng giới tính khi sinh là một thách thức lớn, phức tạp và cấp bách đối với Việt Nam. Các hệ lụy của nó tác động đa chiều đến mọi mặt đời sống xã hội, từ dân số, hôn nhân đến an ninh trật tự và quyền con người. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi nỗ lực bền bỉ, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, xã hội và sự thay đổi nhận thức sâu sắc từ mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng, nhằm hướng tới một xã hội bình đẳng và văn minh.

Năm 2030, thế giới cũng mất cân bằng giới nghiêm trọng

Đó là những dự báo tác động lâu dài của việc lựa chọn giới tính đối với xã hội do một nhóm nghiên cứu quốc tế đưa ra sau khi phân tích dữ liệu hơn 3 triệu ca sinh nở trong 50 năm qua. Theo nghiên cứu này, tại nhiều nước trong khu vực Đông Nam châu Âu, Nam Á và Đông Á đã ghi nhận tình trạng nạo phá thai tăng trong 40 năm qua nhằm lựa chọn giới tính.

Nghiên cứu cho thấy số bé gái được sinh ra giảm sẽ dẫn tới tình trạng thừa thanh niên nam giới tại khoảng 30% dân số toàn cầu vào năm 2030.  Tình trạng mất cân bằng giới sẽ dẫn tới nhiều hệ lụy cho thế giới như gia tăng hành vi bạo lực và chống đối xã hội và sâu sa hơn là ảnh hưởng đến sự ổn định lâu dài và sự phát triển xã hội bền vững.

Cảnh báo trên đã đặt ra yêu cầu các quốc gia trên thế giới cần nỗ lực tuyên truyền, thay đổi nhận thức về giới tính, giảm thiểu những hành vi có hại như lựa chọn giới tính thai nhi.

Tin cùng chuyên mục

Bài 4: Bình đẳng giới từ mái ấm gia đình

Bài 4: Bình đẳng giới từ mái ấm gia đình

(PNTĐ) - Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh không chỉ là câu chuyện của chính sách hay con số, mà bắt đầu từ những điều nhỏ bé trong từng gia đình – nơi cha mẹ gieo mầm bình đẳng, nơi trẻ em được dạy yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Từ những mô hình ở cơ sở, đến nỗ lực của các cấp Hội Phụ nữ Hà Nội và trong mỗi gia đình, mỗi cá nhân... , thông điệp “con nào cũng quý” đang được lan tỏa, góp phần xây dựng xã hội công bằng, nhân văn và phát triển bền vững.
Bài 3: Hiệu quả từ việc đưa chính sách vào thực tiễn

Bài 3: Hiệu quả từ việc đưa chính sách vào thực tiễn

(PNTĐ) - Từ khung pháp lý, hệ thống chủ trương, chính sách ngày một hoàn thiện, thời gian qua, nhiều địa phương tại Hà Nội đã tích cực triển khai các hoạt động, xây dựng các mô hình nhằm truyền thông, vận động nâng cao nhận thức, nhằm giải quyết nguyên nhân gốc rễ của tư tưởng trọng nam khinh nữ; đồng thời tạo môi trường công bằng hơn về giới để trẻ em gái được phát triển toàn diện.
Bài 2: Giải pháp đến từ khuôn khổ pháp lý và hệ thống chính sách

Bài 2: Giải pháp đến từ khuôn khổ pháp lý và hệ thống chính sách

(PNTĐ) - Mất cân bằng giới tính khi sinh là vấn đề gốc rễ không chỉ của dân số mà còn của bất bình đẳng giới. Để giảm thiểu tình trạng này, thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã tích cực hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ thống chính sách hỗ trợ, đồng thời triển khai các hoạt động nhằm nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình, cộng đồng, xã hội.
Kỳ 5: Phát huy giá trị di sản văn hóa trong kỷ nguyên mới

Kỳ 5: Phát huy giá trị di sản văn hóa trong kỷ nguyên mới

(PNTĐ) - Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: "Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế". Nội hàm của 12 lĩnh vực công nghiệp văn hóa mà Chính phủ đã xác định trong “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đều liên quan đến di sản văn hóa. Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, việc giữ gìn, trao truyền và phát huy sức mạnh của văn hóa truyền thống sẽ tạo nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh cho dân tộc vươn mình.
Kỳ 4: Để di sản không chỉ kể chuyện quá khứ...

Kỳ 4: Để di sản không chỉ kể chuyện quá khứ...

(PNTĐ) - Có thể nói, chính sách của Nhà nước đóng vai trò then chốt trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản nói chung, di sản văn hóa phi vật thể nói riêng. Nhưng nếu chỉ dựa vào nguồn lực của Nhà nước thì chưa đủ. Phát huy vai trò của cộng đồng, làm sao để người dân có thể sống tốt nhờ di sản văn hóa mới là giải pháp bền vững để bảo vệ và phát huy giá trị của di sản.