Di sản văn hóa phi vật thể: Thất truyền và trao truyền

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền

HOÀNG LAN
Chia sẻ

(PNTĐ) - Việt Nam là quốc gia có kho tàng di sản văn hóa truyền thống, bao gồm di sản văn hóa phi vật thể rất phong phú, đa dạng. Di sản văn hóa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của đất nước; tạo ra sự gắn kết cộng đồng, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước trong các thế hệ, củng cố cốt cách, tâm hồn con người Việt Nam. Vì vậy, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cũng chính là bảo vệ và phát huy bản sắc của dân tộc.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 1

Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm nhiều loại hình: Ngữ văn truyền khẩu, nghệ thuật trình diễn truyền thống, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống và tri thức dân gian... Với đặc điểm là sản phẩm tinh thần được tái tạo, trao truyền bằng hình thức truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác như lễ hội, lối sống, trang phục truyền thống, ẩm thực.... di sản văn hóa phi vật thể rất dễ biến dạng, thất truyền nếu không được thực hành và kế tục trong cộng đồng.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 2

Đến với làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội hôm nay, ít ai biết được, nơi đây từng là một làng nghề truyền thống dệt lượt với Tổ nghề là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Không còn tiếng dệt vải và cũng không ai tìm tới đây để mua vải, nghề dệt lượt ở làng Bùng giờ đây, chỉ còn lại trong ký ức của các bậc cao niên, những người từng gắn bó cả đời bên khung cửi.

Bà Phùng Thị Thìn chia sẻ về nghề dệt lượt truyền thống một thời từng gắn bó với người dân làng Bùng

“Tôi vẫn yêu nghề, thạo nghề nhưng không còn cơ hội để được làm nghề nữa”, đó là tâm sự của bà Phùng Thị Thìn, 74 tuổi, ở làng Bùng. Từ năm 15 tuổi, bà Thìn đã bắt đầu học dệt từ bà và mẹ, tính đến khi chính thức bỏ nghề là gần 50 năm. Nhờ có dệt lượt mà bà có thể nuôi 4 con nên người. Dệt lượt một thời cũng là nghề đem lại nguồn thu nhập chính cho người dân ở làng Bùng. Sản phẩm vải lượt, tùy vào kích cỡ của sợi tơ mà có thể được sử dụng cho các công năng khác nhau. Sau đó, nghề bắt đầu mai một dần vì sản phẩm không có đầu ra.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 3

Vì dệt lượt từng rất phát triển nên bà Thìn và nhiều người dân ở làng Bùng coi khung cửi, con thoi... là tài sản quý, thường chuẩn bị trước trong nhà để trao cho các con khi lập gia đình. 4 người con của bà Thìn khi kết hôn đều được mẹ tặng mỗi con 1 chiếc khung cửi như thế. Những người con gái của bà Thìn lớn lên bên khung cửi và đều được mẹ truyền dạy kỹ thuật dệt lượt. Tuy nhiên, không có ai tiếp tục thực hành tri thức này. Tại làng Bùng hôm nay, giới trẻ chủ yếu đi làm công nhân ở các nhà máy, kinh doanh buôn bán. Những người như bà Thìn am hiểu về dệt lượt và có thể thực hành dệt lượt ít dần. “Hiện có vài cụ cao niên 80, 90 tuổi nắm giữ kỹ thuật dệt nhưng không dệt được nữa do sức khỏe yếu, mắt kém”, bà Thìn ngậm ngùi.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 4
Trong nhà bà còn một chiếc khung cửi, có lẽ là cuối cùng của làng nghề dệt lượt một thủa

Với mong muốn giữ lại dấu vết của một loại hình di sản văn hóa phi vật thể của cha ông, cách đây ít năm, bà Thìn đã trân trọng gửi tặng chính quyền địa phương một chiếc khung cửi để đưa vào trưng bày. Trong nhà bà còn một chiếc khung cửi, có lẽ là cuối cùng của làng nghề dệt lượt một thủa đang được cất trên gác mái, song, lâu rồi không lấy xuống nên bà không biết có còn dùng được không. “Tôi chỉ mong bằng cách nào đó, có thể lưu giữ lại dấu vết của di sản dệt lượt, để sau này kể lại cho con cháu đời sau”, bà nói.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 5
Lâu lắm mới có người hỏi về nghề dệt lượt của làng, bà Thìn vội đi tìm khung cửi, con thoi... và may mắn tìm thêm được miếng vải lượt và cái rây bột được căng từ vải lượt. Bà bảo, dấu vết của di sản dệt lượt giờ chỉ còn lại ngần này.

Giọt đồng trang kim mỹ nghệ là nghề truyền thống của người dân Tổ dân phố Phú Thứ, phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Đến nay, ở Phú Thứ chỉ còn sót lại 3 người thợ cuối cùng. Tiếc nuối di sản mà cha ông để lại, họ cố gắng bám trụ, song, những nỗ lực vãn hồi này có lẽ sẽ không thể thay đổi được “cái chết đã được báo trước” của nghề giọt đồng trang kim mỹ nghệ.

Ông Nguyễn Văn Hải, 1 trong 3 người thợ kể, thời thịnh vượng của nghề giọt đồng trang kim mỹ nghệ vào khoảng những năm đầu 90 của thế kỷ trước. Đến khoảng năm 1997, nghề bắt đầu gặp khó khi sản phẩm cùng loại của nước ngoài tràn vào. Trang kim của người thợ Phú Thứ được làm thủ công hoàn toàn với số lượng có hạn không cạnh tranh được với hàng sản xuất công nghiệp, giá bán lại rẻ. Vì thế, gần như tất cả thợ thủ công ở Phú Thứ bỏ nghề để chuyển sang làm nghề khác như gò hàn thiếc.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 6

Sản phẩm của nghề giọt đồng trang kim mỹ nghệ Phú Thứ là những lá đồng được cán mỏng bằng búa, thường được sử dụng để dán lên đồ vàng mã, vàng thỏi, mũ sư tử...  Từ đồng nguyên liệu, người thợ đưa vào đun cho mềm trên bếp củi, sau đó đợi đồng nguội thì “trên búa, dưới đe” đánh mỏng. Sau khoảng vài chục lần nung dẻo, để nguội rồi lại cán mỏng, lá đồng được đem đi rửa, ép nước rồi phơi khô trên sào tre.

Ông Đỗ Quang Tạo, người thợ thứ 3 còn sót lại của làng nghề cho biết: Điều ông trăn trở nhất hiện nay là các thế hệ con cháu đời sau ở Phú Thứ không còn ai học nghề, biết nghề và theo nghề. Ngay cả trong gia đình ông, các con trai dù lớn lên cùng nghề truyền thống, từ nhỏ đã thấy bố mẹ làm nghề nhưng cũng không học nghề. Anh trai ông là Đỗ Quang Tân đã bỏ nghề vì sức yếu. Về đằng ngoại, 3 anh trai của vợ ông cũng đã bỏ nghề từ lâu.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 7
Ông Đỗ Quang Tạo đang chuẩn bị đánh đồng, sau đó vợ ông phụ chồng rửa đồng, tách, phơi lá đồng trên sào tre cho khô

35 năm về làm dâu ở Phú Thứ, bà Nguyễn Thị Hảo, Bí thư Chi bộ-Trưởng ban công tác mặt trận Tổ dân phố Phú Thứ cũng rất buồn khi phải chứng kiến một di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc đang chết dần. “Ở Phú Thứ, các cụ cao niên giỏi nghề, nắm chắc kỹ thuật đều đã qua đời. Những thợ làm nghề lớp sau đều ở ngưỡng 60 tuổi. Chỉ 1, 2 năm nữa thôi, khi những người thợ cuối cùng dừng lại là nghề thủ công truyền thống này chắc chắn thất truyền”, bà Hảo ngậm ngùi chia sẻ và cho biết thêm, nhiều nghề thủ công truyền thống khác còn được quan tâm bảo tồn, phát triển nhưng nghề giọt đồng trang kim mỹ nghệ, dù nằm trong danh sách di sản văn hóa phi vật thể của Thành phố lại chưa được công chúng biến tới. Phú Thứ gần như chưa bao giờ được đón các đoàn khách tới ghi nhận về nghề. Theo bà Hảo, nếu sớm quay phim, chụp hình, ghi chép khi nghề giọt đồng trang kim mỹ nghệ còn đang “sống” thì sau này còn có tư liệu để kể cho con cháu đời sau. Bằng không thì đến dấu vết của nghề cũng chẳng còn.

Nghề thủ công truyền thống là một trong các loại hình di sản văn hóa phi vật thể. Theo báo cáo lần đầu tiên về kết quả kiểm kê của Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội vào năm 2015, trên địa bàn Thành phố ghi nhận 175 nghề. Bên cạnh những nghề thủ công đang phát triển tốt, nhiều nghề thủ công đang ở trong tình trạng cần được bảo vệ khẩn cấp vì quá ít người còn thực hành, hay không còn được tiếp tục thực hành nữa. Nhiều nghề thủ công nổi tiếng một thời ở Hà Nội nay do sự phát triển của xã hội đã hoàn toàn biến mất như:  Nghề dát thiếc (Hoàng Mai), Làm giấy sắc phong (Cầu Giấy), Đóng cối xay lúa (Phú Xuyên), Làm pháo ở Bình Đà (Thanh Oai)…

Có thể thấy, không chỉ với Hà Nội, những thay đổi trong xã hội đương đại đã khiến nhiều di sản văn hóa phi vật thể bị mai một dần do không đáp ứng được tốc độ phát triển.

Tại tỉnh Bắc Ninh là sự mai một của làng nghề tranh dân gian Đông Hồ. Hiện nay, nhiều hộ gia đình ở làng tranh Đông Hồ đã chuyển sang làm hàng mã. Số người tham gia thực hành nghề làm tranh dân gian còn rất ít. Dịp lễ, Tết, Đông Hồ vẫn thu thút đông đảo khách hàng tìm tới, nhưng là để mua đồ hàng mã như ti vi, tủ lạnh, nhà, xe ô tô bằng giấy... Còn sản phẩm truyền thống là tranh dân gian lại bị hạn chế đầu ra.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 8

Cùng với nghề thủ công truyền thống, nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác như tri thức dân gian, nghệ thuật trình diễn truyền thống... cũng rơi vào tình cảnh tương tự.

Tại Huế, nghệ thuật Diễn xướng cung đình Huế (bao gồm Nhã nhạc, Tuồng cung đình và Ca múa cung đình) đã từng tồn tại dưới các triều đại phong kiến Việt Nam và phát tích rực rỡ dưới thời Nguyễn. Song qua thời gian, loại hình nghệ thuật này đã bị mất đi môi trường diễn xướng nguyên thủy, các nghệ nhân cung đình tản mát mỗi người một nơi, những vũ khúc, những bài bản, những vở Tuồng đã từng chỉ dành riêng cho chốn cung đình bị “tam sao thất bản”, mai một, thậm chí rơi vào quên lãng.

Theo Ths. Trương Trọng Bình, Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế, đến năm 2003, sau khi Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc UNESCO vinh danh thì những giá trị về di sản của nghệ thuật Diễn xướng cung đình Huế mới được quan tâm. Tuy nhiên, do đã nhiều năm mai một, bị lãng quên nên để bảo tồn và đưa trở lại các giá trị di sản của nghệ thuật Diễn xướng cung đình Huế một cách đúng nghĩa vẫn còn cực kỳ khó khăn. Bởi, các nghệ nhân cung đình nắm giữ những bí kíp nghề của loại hình nghệ thuật diễn xướng này đã không còn và hậu thế của họ cũng chỉ tiếp nhận được một cách chưa thực sự trọn vẹn. Nhiều tài liệu, nhiều văn bản đã bị thất lạc mà đến tận  giờ vẫn chưa truy tìm lại được.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 9
Do đã nhiều năm mai một, bị lãng quên nên để bảo tồn và đưa trở lại các giá trị di sản của nghệ thuật Diễn xướng cung đình Huế một cách đúng nghĩa vẫn còn cực kỳ khó khăn.

Tương tự, theo thạc sĩ Nguyễn Thị Lệ Quyên, Phó Trưởng khoa Giáo dục nghệ thuật, trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng, vùng biển Mân Thái của thành phố Đà Nẵng là nơi có phong tục, tập quán, lễ hội và nghệ thuật dân gian đặc sắc liên quan đến văn hoá biển mà người dân nơi đây từ nhiều đời nay đã không ngừng sáng tạo, lưu giữ và phát triển. Trong số đó, nghệ thuật hát Bá Trạo có nhiều màu sắc, rất gần gũi và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống tâm linh của người dân. Loại hình nghệ thuật này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xét công nhận đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia vào tháng 9/2013. Song, thời gian gần đây, đội hát Bả Trạo đã không còn trình diễn, chỉ còn một vài nghệ nhân nay đã lớn tuổi vẫn luôn mang trong mình nguyện vọng lưu giữ và mong muốn phục hồi các bản hát Bả Trạo, lưu truyền cho đời sau. Cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian khác, nghi thức tâm linh - di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia này đang đứng trước nguy cơ mai một.

Với tỉnh Quảng Trị, trong kháng chiến, Hò Như Lệ, hay còn gọi là Hò địch vận, Hò binh vận, Hò ngụy vận... của người dân làng Như Lệ từng đóng vai trò cổ vũ, động viên thanh niên lên đường bảo vệ Tổ quốc, kêu gọi binh sỹ đang ở trong hàng ngũ của địch trở về với cách mạng. Qua thời gian, theo đánh giá của các chuyên gia, Hò Như Lệ cũng đang mất dần vị trí trong đời sống. Giống như các loại di sản văn hóa phi vật thể khác, Hò Như Lệ thường được trao truyền dưới dạng truyền miệng. Song, hiện nay, các thế hệ cao niên am hiểu về Hò Như Lệ ngày một ít dần, lớp người kế tục có khả năng diễn xướng cũng hiếm hoi. Công chúng trẻ tuổi nếu thi thoảng được nghe Hò Như Lệ cũng không có sự hiểu biết, hứng thú trong tiếp nhận. Sự kế thừa di sản văn hóa phi vật thể này giữa các thế hệ bị ngắt quãng khiến việc tiếp nhận, trao truyền, quảng bá điệu Hò này trở nên khó khăn hơn.

TS Nguyễn Anh Thư, Khoa Di sản văn hóa, Đại học Văn hóa Hà Nội là chuyên gia đã tham gia nhiều chuyến điền dã, kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể cho các địa phương. Bà cho biết, sự mai một của nhiều di sản văn hóa phi vật thể là có thật. Trong đó Hà Nội là địa phương có kho tàng di sản văn hóa phi vật thể đồ sộ nhất cả nước nhưng trước làn sóng phát triển, đô thị hóa mạnh mẽ hiện nay, nhiều di sản đang đối mặt với nguy cơ thất truyền, mai một, biến mất do không có người thực hành. Trong 7 loại hình di sản văn hóa phi vật thể, nghệ thuật trình diễn, nghề thủ công truyền thống và tri thức dân gian là 3 nhóm di sản dễ bị thất truyền nhất bởi những tác động biến đổi của bối cảnh, nhu cầu và quan niệm xã hội.

Kỳ 1: Nhiều di sản có nguy cơ thất truyền - ảnh 10

(còn nữa)

 

Tin cùng chuyên mục

Kỳ 5: Phát huy giá trị di sản văn hóa trong kỷ nguyên mới

Kỳ 5: Phát huy giá trị di sản văn hóa trong kỷ nguyên mới

(PNTĐ) - Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: "Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế". Nội hàm của 12 lĩnh vực công nghiệp văn hóa mà Chính phủ đã xác định trong “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đều liên quan đến di sản văn hóa. Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, việc giữ gìn, trao truyền và phát huy sức mạnh của văn hóa truyền thống sẽ tạo nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh cho dân tộc vươn mình.
Kỳ 4: Để di sản không chỉ kể chuyện quá khứ...

Kỳ 4: Để di sản không chỉ kể chuyện quá khứ...

(PNTĐ) - Có thể nói, chính sách của Nhà nước đóng vai trò then chốt trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản nói chung, di sản văn hóa phi vật thể nói riêng. Nhưng nếu chỉ dựa vào nguồn lực của Nhà nước thì chưa đủ. Phát huy vai trò của cộng đồng, làm sao để người dân có thể sống tốt nhờ di sản văn hóa mới là giải pháp bền vững để bảo vệ và phát huy giá trị của di sản.
Kỳ cuối: Cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp nhưng quyết không khoan nhượng

Kỳ cuối: Cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp nhưng quyết không khoan nhượng

(PNTĐ) - Bất chấp mọi luận điệu xuyên tạc, sai trái, âm mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ Đảng, chính quyền và đồng bào có đạo, với sự thật hiển nhiên về những thành quả của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930 đến nay, Nhân dân Việt Nam, trong đó có đồng bào các tôn giáo vẫn sẽ một lòng sắt son đi theo Đảng, vững niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần đấu tranh không khoan nhượng, làm thất bại mọi âm mưu đen tối; từng bước loại trừ yếu tố chính trị phản động trong các tôn giáo; hướng dẫn các tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức sắc đoàn kết, đồng hành cùng dân tộc, đặt lợi ích quốc gia và dân tộc lên trên hết.
Kỳ 3: Nghịch lý “mô hình bảo tồn”... vất vả “sinh tồn“

Kỳ 3: Nghịch lý “mô hình bảo tồn”... vất vả “sinh tồn“

(PNTĐ) - Thời gian qua, Đảng, Nhà nước, các địa phương, trong đó có Hà Nội luôn dành sự quan tâm tới công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thông qua việc ban hành các chủ trương, chính sách... Nhưng, ghi nhận thực tế tại các địa phương có di sản văn hóa và các mô hình đang tham gia gìn giữ, bảo tồn văn hóa truyền thống đã cho thấy một thực tế, chính sách thì có, nhưng nhiều mô hình "bảo tồn" lại đang rơi vào cảnh hoạt động khó khăn, cầm chừng và di sản thì vẫn chưa phát huy hết giá trị.
Kỳ 4: Hà Nội làm tốt công tác tôn giáo, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Kỳ 4: Hà Nội làm tốt công tác tôn giáo, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

(PNTĐ) - Thủ đô Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa, và kinh tế của Việt Nam mà còn là một trong những biểu tượng văn hóa và lịch sử đậm nét của đất nước. Vì vậy, Hà Nội cũng luôn là mục tiêu trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Trong bối cảnh ấy, Hà Nội đã luôn làm tốt công tác bảo vệ Đảng, chính quyền, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo từ đó làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.