Di sản văn hóa phi vật thể: Thất truyền và trao truyền

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản

HOÀNG LAN
Chia sẻ

(PNTĐ) - Có thể thấy, áp lực phát triển kinh tế, sự thay đổi trong lối sống và xu hướng tiếp nhận văn hóa của xã hội hiện đại đã và đang khiến nhiều loại hình di sản văn hóa truyền thống bị mai một, thậm chí thất truyền. Cũng theo kết quả “Tổng kiểm kê, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể Hà Nội” trong lần đầu tiên thực hiện năm 2015, Hà Nội đã nhận diện trên 100 di sản cần ưu tiên bảo vệ và bảo vệ khẩn cấp như tiếng lóng ở làng Đa Chất, xã Đại Xuyên (huyện Phú Xuyên); hát Trống quân ở xã Khánh Hà (huyện Thường Tín); hát Tuồng cổ thôn Cốc Thượng, xã Hoàng Diệu (huyện Chương Mỹ); hát Trống quân ở thôn Phúc Lâm, xã Phúc Tiến (huyện Phú Xuyên); hát Ví Ngọc Than, xã Ngọc Mỹ (huyện Quốc Oai), trò vật lầu ở làng Thao Chính, thị trấn Phú Xuyên (huyện Phú Xuyên); nghề thêu ren ở xã Bình Minh (huyện Thanh Oai)... Tuy nhiên, 10 năm sau, một số di sản văn hóa phi vật thể tưởng chừng bị mai một đã hồi sinh một cách diệu kỳ, qua đó góp phần bảo tồn nét đẹp văn hóa Thăng Long- Hà Nội. Đó là nhờ sự góp sức không nhỏ của cộng đồng.

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 1

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 2

Hát Ví Ngọc Than xuất phát từ làng văn hiến có truyền thống khoa bảng Ngọc Than, một làng Việt cổ thuộc xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Loại hình diễn xướng dân gian độc đáo này từng là hoạt động văn hóa không thể thiếu ở phủ Quốc Oai xưa, đã được người dân, các đôi trai gái làng Ngọc Than vận dụng trong đời sống sinh hoạt và lao động sản xuất hàng ngày. Địa điểm hát Ví rất linh hoạt, có khi trên bến dưới thuyền, hai bên bờ sông, trên bãi đất rộng mà hát Ví, đối đáp với nhau.

Song, qua thời gian, điệu hát Ví Ngọc Than đã bị mai một, thất truyền. Năm 2015, khi được cơ quan chức năng kiểm kê, cả thôn Ngọc Than chỉ còn cụ Bùi Thúc Cát, khi đó đã 91 tuổi là thông thạo về hát Ví. Nhiều bậc đàn anh, đàn chị hát Ví nổi tiếng trong thôn một thời đều đã qua đời, mang theo những làn điệu hát Ví về với tiên tổ.

Ông Nguyễn Xuân Mai, năm nay đã 86 tuổi ở xóm Chùa, thôn Ngọc Than nhớ lại: Tuổi thơ của tôi lớn lên trong tiếng hát Ví của mẹ, của chị gái (đều là 2 người hát rất hay) và của bà con trong làng xóm. Thế rồi, do chiến tranh và lo toan mưu sinh, câu ca, điệu hát Ví cứ rơi rụng dần. Hát Ví không còn hiện diện trong đời sống, người dân Ngọc Than cũng không ai nhớ và nhắc tới hát Ví.

Là bộ đội tham gia kháng chiến xuất ngũ trở về làng, ông Mai rất trăn trở khi chính trên quê hương của hát Ví nhưng lại vắng bóng điệu hát Ví. Đặc biệt, khi tìm đọc hương ước của làng thấy nhắc đến phong trào hát Ví là truyền thống văn hóa, ông Mai lại càng tiếc cho một loại hình di sản phi vật thể của ông cha đã bị lụi tàn.

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 3
 

Với tình yêu văn hóa dân tộc mãnh liệt và ý thức trách nhiệm của một người con Ngọc Than, ông Mai quyết định thành lập CLB hát Ví. Thời gian đầu, CLB chỉ vận động được 4 người tham gia, gồm 2 nam, 2 nữ và tất cả đều không biết về hát Ví cũng như chưa từng hát Ví. Từ điệu hát Ví đã được nghe thủa nhỏ, ông Mai đã trực tiếp truyền dạy lại cho mọi người. Hát Ví không có nhạc cụ nên đòi hỏi người hát phải hát đúng làn điệu. Ông cũng tự mày mò sáng tác các lời hát Ví theo chủ đề về công cuộc xây dựng nông thôn mới ở quê hương Ngọc Mỹ, việc thực hiện nếp sống mới, ứng xử nơi công cộng, giữ sạch môi trường... để bà con thực hành. Hát Ví nhờ đó mà trở nên gần gũi với chính cuộc sống đương đại của bà con. Ông còn chạy đua với thời gian, tìm gặp và gợi lại những bài hát Ví cổ qua trí nhớ các bậc cao niên ở làng. Nhờ đó, ông đã chép được 120 bài hát Ví cổ và in thành tuyển tập để làm cơ sở dữ liệu lưu truyền cho đời sau.

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 4
Nhờ những nỗ lực của ông Nguyễn Xuân Mai, hát Ví đã được một cách kỳ diệu.

Nhờ những nỗ lực của ông Nguyễn Xuân Mai, hát Ví đã được hồi sinh một cách kỳ diệu. Từ 4 người, CLB dần thu hút đông hơn số thành viên thường xuyên tập luyện. Vào buổi tối, gác lại những lo toan mưu sinh, các thành viên lại tập trung tại đình làng để tập hát Ví. Nhiều cháu nhỏ mới 3, 4 tuổi theo chân bà, bố mẹ tới các buổi sinh hoạt hát Ví cũng đã biết và thích hát Ví.

Clip ông Nguyễn Xuân Mai miệt mài truyền dạy hát Ví, qua đó bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của cha ông

Đến nay ông Mai đã truyền dạy cho 22 người biết hát Ví để biểu diễn và 8 thành viên tiêu biểu có khả năng hát hay, có thể tiếp tục truyền dạy hát Ví cho thế hệ kế cận. Các thành viên trong CLB còn tự đóng góp kinh phí mua thuyền rồng 60 triệu đồng để phục vụ biểu diễn tại khu vực ao Sen trước cửa đình, tự mua trang phục biểu diễn và loa kéo tập luyện. Năm 2023, CLB hát Ví thôn Ngọc Than chính thức có quyết định công nhận do ông Nguyễn Xuân Mai làm Chủ nhiệm với quy chế hoạt đồng bài bản; được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động 20 triệu đồng/năm.

Bà Kiều Thị Mách, sinh năm 1956 là người con của thôn Phúc Lâm, xã Phúc Tiến, huyện Phú Xuyên, Hà Nội - cái nôi của nghệ thuật hát Trống quân. Trong gia đình, bà và mẹ của bà đã truyền lại cho bà tình yêu làn điệu Trống quân mượt mà giàu bản sắc từ khi còn nhỏ.

“Tôi thấy rằng, trong thời buổi kinh tế thị trường, từ già đến trẻ, từ nam đến nữ ai cũng tất bật với vòng xoay của cuộc sống. Khi rảnh rỗi thì hưởng thụ thành quả của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, cuộc sống khép kín với chiếc điện thoại thông minh trong tay, tìm vui trên mạng xã hội. Vì vậy từng thôn xóm, từng ngõ ngách của làng quê không còn ai ham mê những trò chơi dân gian, những môn nghệ thuật cổ xưa như hát Trống quân”, bà Mách nhớ lại.

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 5

Để giữ điệu Trống quân của quê hương không bị quên lãng, năm 1997, được sự ủng hộ của chồng, bà đã mạnh dạn xây dựng và lan toả nghệ thuật hát Trống quân của quê hương. Ngày ngày, bà Mách đến từng nhà các bậc cao niên trong làng để chép lại những làn điệu Trống quân đã bị mai một, rồi biên soạn thêm nhiều làn điệu mới. Từ năm 1982, là Chi hội trưởng phụ nữ thôn Phúc Lâm, bà lại càng có cơ hội vận động người dân, con em các gia đình tham gia học hát. Dẫu phải bươn chải nuôi dạy 3 con ăn học, bà vẫn tâm huyết chế tạo trống, phách, đạo cụ, tự bỏ tiền mua trang phục biểu diễn cho mọi người, thuê loa đài và hướng dẫn từng câu hát, điệu múa, luyến láy, lấy hơi, ngắt nhịp với mong muốn đưa hát Trống quân trở lại với cộng đồng.

Với sự kiên trì, bền bỉ, đội hát Trống quân Phúc Lâm không ngừng tăng số thành viên, số lần biểu diễn và càng ngày càng chuyên nghiệp hơn. “Tiếng lành đồn xa”, năm 2014, bà đã mời Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam về Phúc Lâm nghiên cứu về hát Trống quân và rất vui mừng khi những điệu hát Trống quân được ghi nhận là di sản văn hóa phi vật thể rất có giá trị và cần được bảo tồn khẩn cấp. Sau đó, bà và các thành viên trong CLB còn được Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Ngần trực tiếp biên soạn và dàn dựng một số tiết mục hát Trống quân tạo nền tảng để hát Trống quân Phúc Lâm tham gia các hội thi chuyên nghiệp cấp Thành phố.

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 6
Năm 2016, CLB hát Trống quân chính thức được chính quyền địa phương ra quyết định thành lập, bà Mách đảm nhận vai trò là Chủ nhiệm

Năm 2016, CLB hát Trống quân chính thức được chính quyền địa phương ra quyết định thành lập, bà Mách đảm nhận vai trò là Chủ nhiệm. Từ đó, ngôi nhà của bà đã trở thành địa chỉ quen thuộc của các thành viên tham gia tập luyện. Có thành viên cao tuổi nhất đã 90 tuổi. Năm 2022, bà Mách vinh dự được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú hát Trống quân. Cả gia đình bà gồm chồng và 6 con cả trai, gái, dâu, rể cùng các cháu đều thông thuộc những làn điệu Trống quân. Con gái bà đang sinh sống ở Canađa cũng tích cực trao truyền và gìn gìn di sản văn hóa Trống quân quý báu của quê nhà trên nước bạn.

Giờ đây, trên ngõ xóm, đường thôn ở Phúc Lâm, không khó để bắt gặp hình ảnh nam giới mặc bộ quần áo nâu tươi, đầu quấn khăn lưỡi rìu màu đỏ, nữ mặc váy nâu, áo cánh nâu, đầu quấn khăn nhung đen hát những làn điệu Trống quân mượt mà, đằm thắm, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhà nhà yên vui...

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 7

Trong bối cảnh nhiều môn nghệ thuật truyền thống Việt Nam gặp khó khăn trong hoạt động thì tại Hà Nội, lại có một mô hình bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể độc đáo đã duy trì thành công trong nhiều năm: Dạy Tuồng cổ cho trẻ em và thu hút trẻ em đến với Tuồng cổ.

Cứ vào mỗi dịp hè, tại nhà văn hóa và nhà của bà Đỗ Thanh Hằng, thôn Đường Yên, xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh, Hà Nội lại rộn rã trẻ em đến học Tuồng cổ. Cháu nào đến được  buổi sáng, bà Hằng dạy Tuồng vào buổi sáng, cháu nào học vào buổi chiều thì bà dạy chiều. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thù lao được Nhà nước chi trả cho hoạt động truyền dạy nghệ thuật truyền thống đều được bà sử dụng để mua trang phục, đạo cụ biểu diễn, quà bồi dưỡng thêm cho các trẻ trong lớp học Tuồng. 

Điều thú vị, ngoài giờ dạy Tuồng, bà Hằng vẫn là một nông dân “chấn lấm tay bùn” lội ruộng cấy lúa. 

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 8
Bà Hằng vẫn là một nông dân “chấn lấm tay bùn” lội ruộng cấy lúa. Ngoài giờ làm ruộng, bà lại dạy Tuồng cho CLB Tuồng Đồng Ấu

Xã Xuân Nộn vốn là cái nôi của nghệ thuật Tuồng. Trên địa bàn xã từng có 3 đội tuồng ở 3 thôn Đường Yên, Lương Quy và Xuân Nộn. Từ nhỏ đã rất yêu môn nghệ thuật truyền thống Tuồng và cứ thế qua nhiều tháng ngày, môn nghệ thuật này đã ngấm sâu trong bà Hằng lúc nào không hay. Bà  thuộc được rất nhiều vai Tuồng ở các thể loại khác nhau như vai mẫu Đào Tam Xuân, Hồ Nguyệt Cô, Tạ Hoa Nữ, Tạ Hoa Đường, Đào Văn, Đào Võ, Kép Táu, Kép Con... Điều này rất thuận lợi cho bà khi tham gia môn nghệ thuật Tuồng sau này và tập hợp truyền dạy cho thế hệ trẻ.

Bà nhớ lại, vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, các đội tuồng của Xuân Nộn hoạt động thưa thớt, nhiều diễn viên tuổi cao sức yếu, có đội Tuồng còn dừng hoạt động. Để bảo tồn và phát triển Tuồng, bà cùng một số người tìm cách khôi phục lại môn nghệ thuật Tuồng truyền thống để bảo tồn di sản văn hóa quý giá này, trong đó có sáng kiến thành lập đội tuồng Đồng Ấu thôn Đường Yên (năm 2007) với 58 thành viên và duy trì liên tục mô hình cho tới bây giờ.

Tham gia CLB, các em nhỏ, trung bình chỉ trên dưới 10 tuổi sẽ được bà tâm huyết trực tiếp truyền dạy từ các động tác cơ bản của Tuồng cổ như loan, cung kính, chào mời, cuộn dựng, cuộn rạch, khán, bộ long, bộ hổ, múa cung, múa kiếm, múa đao... Tiếp đó, các em sẽ được học hát lối, hát nam, hát khách, hát sơn nữ, nhịp 1, 2, 3... Cuối cùng là được tham gia đóng trích đoạn các vở Tuồng như Trần Quốc Toản ra quân, Trưng Trắc - Trưng Nhị, Người con gái Kinh Bắc (Tuồng lịch sử), Kim Đồng Hoàng Nữ (Tuồng dân gian); Đào Tam Xuân Loạn Trào (Tuồng truyền thống)...

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 9

Tuồng là môn nghệ thuật độc đáo, kết hợp cả lời nói và cử chỉ, khóe mắt, chân tay nên người diễn cần có kỹ năng, kỹ xảo cao. Vì thế, các cháu thiếu nhi học Tuồng cổ sẽ khó hơn người lớn nên bà phải kiên trì, uốn nắn các con từng chút một. Chưa kể, thời gian đầu, nhiều gia đình không muốn cho con học Tuồng để dành thời gian học môn văn hóa. Bà Hằng lại tìm đến tận nhà các cháu, thuyết phục gia đình đồng ý cho con em đi học Tuồng.

Bà xác định, nếu không truyền dạy cho thế hệ trẻ, thì sau này, nghệ thuật truyền thống Tuồng sẽ bị mai một nên bất kỳ cháu nhỏ nào đăng ký học, bà cũng nhận và bỏ công đào tạo. Trung bình mỗi năm, lớp Tuồng Đồng Ấu thôn Đường Yên có khoảng 50 cháu theo học từ cơ bản tới nâng cao. Với việc đang nắm giữ 10 kịch bản Tuồng gồm 03 kịch bản truyền thống, 03 kịch bản lịch sử, 02 kịch bản dân gian, 02 kịch bản Tuồng hiện đại, bà có thể trực tiếp dạy và dàn dựng vở diễn cho đội Đồng Ấu, tiết kiệm được chi phí thuê đạo diễn. Nhờ đó, các cháu dù còn rất nhỏ đã có thể biểu diễn được các trích đoạn vở Tuồng cổ. Một số cháu xuất thân từ lớp Tuồng Đồng Ấu thời kỳ đầu hiện đã trở thành nghệ sỹ, biên đạo múa, công tác tại nhà hát Tuồng, đoàn nghệ thuật...

Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 10
Kỳ 2: Cộng đồng tham gia hồi sinh di sản - ảnh 11

(còn nữa)

Tin cùng chuyên mục

Bài 4: Bình đẳng giới từ mái ấm gia đình

Bài 4: Bình đẳng giới từ mái ấm gia đình

(PNTĐ) - Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh không chỉ là câu chuyện của chính sách hay con số, mà bắt đầu từ những điều nhỏ bé trong từng gia đình – nơi cha mẹ gieo mầm bình đẳng, nơi trẻ em được dạy yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Từ những mô hình ở cơ sở, đến nỗ lực của các cấp Hội Phụ nữ Hà Nội và trong mỗi gia đình, mỗi cá nhân... , thông điệp “con nào cũng quý” đang được lan tỏa, góp phần xây dựng xã hội công bằng, nhân văn và phát triển bền vững.
Bài 3: Hiệu quả từ việc đưa chính sách vào thực tiễn

Bài 3: Hiệu quả từ việc đưa chính sách vào thực tiễn

(PNTĐ) - Từ khung pháp lý, hệ thống chủ trương, chính sách ngày một hoàn thiện, thời gian qua, nhiều địa phương tại Hà Nội đã tích cực triển khai các hoạt động, xây dựng các mô hình nhằm truyền thông, vận động nâng cao nhận thức, nhằm giải quyết nguyên nhân gốc rễ của tư tưởng trọng nam khinh nữ; đồng thời tạo môi trường công bằng hơn về giới để trẻ em gái được phát triển toàn diện.
Bài 2: Giải pháp đến từ khuôn khổ pháp lý và hệ thống chính sách

Bài 2: Giải pháp đến từ khuôn khổ pháp lý và hệ thống chính sách

(PNTĐ) - Mất cân bằng giới tính khi sinh là vấn đề gốc rễ không chỉ của dân số mà còn của bất bình đẳng giới. Để giảm thiểu tình trạng này, thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã tích cực hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hệ thống chính sách hỗ trợ, đồng thời triển khai các hoạt động nhằm nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình, cộng đồng, xã hội.
BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH

BÌNH ĐẲNG GIỚI – CHÌA KHOÁ GIẢM THIỂU MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH

(PNTĐ) -  Mất cân bằng giới tính khi sinh, hay tỷ số giới tính khi sinh cao, đang trở thành một vấn đề xã hội nghiêm trọng. Ở Việt Nam, tình trạng này đang gia tăng và có nguy cơ gây ra nhiều hệ lụy tới cấu trúc dân số, gia đình và sự phát triển bền vững quốc gia.Bình đẳng giới được xem là chìa khóa để giải quyết vấn đề này.
Kỳ 5: Phát huy giá trị di sản văn hóa trong kỷ nguyên mới

Kỳ 5: Phát huy giá trị di sản văn hóa trong kỷ nguyên mới

(PNTĐ) - Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: "Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế". Nội hàm của 12 lĩnh vực công nghiệp văn hóa mà Chính phủ đã xác định trong “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đều liên quan đến di sản văn hóa. Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, việc giữ gìn, trao truyền và phát huy sức mạnh của văn hóa truyền thống sẽ tạo nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh cho dân tộc vươn mình.