Di sản văn hóa phi vật thể: Thất truyền và trao truyền
Kỳ 3: Nghịch lý “mô hình bảo tồn”... vất vả “sinh tồn“
(PNTĐ) - Thời gian qua, Đảng, Nhà nước, các địa phương, trong đó có Hà Nội luôn dành sự quan tâm tới công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thông qua việc ban hành các chủ trương, chính sách... Nhưng, ghi nhận thực tế tại các địa phương có di sản văn hóa và các mô hình đang tham gia gìn giữ, bảo tồn văn hóa truyền thống đã cho thấy một thực tế, chính sách thì có, nhưng nhiều mô hình "bảo tồn" lại đang rơi vào cảnh hoạt động khó khăn, cầm chừng và di sản thì vẫn chưa phát huy hết giá trị.


Trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản nói chung, di sản văn hóa phi vật thể nói riêng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng. Chẳng hạn:
Từ năm 1993, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 25/TTg về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, trong đó đưa ra những chính sách cụ thể trong bảo tồn, phổ biến văn học dân gian, các điệu múa, các làn điện âm nhạc của các dân tộc, giữ gìn các nghề thủ công truyền thống, các loại nhạc dân tộc, xây dựng các tiết mục dân tộc như Tuồng, Chèo, Cải lương, Múa rối, Dân ca đồng thời khen thưởng những người có công trong việc sưu tầm và bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc.

Luật Di sản văn hóa được Quốc hội thông qua tháng 6/2001 cũng dành trọn Chương III để đề cập đến trách nhiệm của Nhà nước, các nguyên tắc bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa; tôn vinh và trọng đãi nghệ nhân, nghệ sỹ trong các ngành, nghề truyền thống.
Từ năm 2006 – 2023, Thủ tướng Chính phủ đã ký các Quyết định phê duyệt nhiều chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa, trong đó nhấn mạnh tới công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá. Chính phủ cũng ban hành một số Nghị định quy định về xét tặng danh hiệu "Nghệ nhân Nhân dân", "Nghệ nhân Ưu tú", đãi ngộ, trợ cấp “Nghệ nhân Nhân dân", "Nghệ nhân Ưu tú" trong lĩnh vực di sản văn hóa, khẳng định sự ghi nhận của Đảng và Nhà nước đối với những nghệ nhân có nhiều đóng góp cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa phi vật thể nói riêng của dân tộc.

Năm 2024, Luật Di sản Văn hóa (sửa đổi) được Quốc hội khóa XV thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025 cũng khẳng định Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong bảo đảm và phát triển hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã được UNESCO ghi danh hoặc công nhận; ưu tiên bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có nguy cơ bị mai một, thất truyền…
Là Thủ đô của các di sản, Hà Nội cũng có nhiều bước tiến trong công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể với những chính sách, giải pháp mang tính chiến lược. Theo đó, Hà Nội là địa phương đầu tiên trên cả nước lập bản đồ di sản văn hóa phi vật thể dựa trên kết quả của đề án Tổng kiểm kê, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể Hà Nội được UBND thành phố HN phê duyệt theo Quyết định số 7456/QĐ – UBND ngày 9/12/2013. Không chỉ giới thiệu sự phân bố của di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thủ đô và từng quận, huyện… Atlas bản đồ di sản văn hóa phi vật thể Hà Nội còn đem đến cái nhìn tổng quan về các di sản cần ưu tiên bảo vệ và cần bảo vệ khẩn cấp. Trên cơ sở đó, những di sản thuộc danh mục ưu tiên sẽ được đầu tư hỗ trợ về kinh phí hoạt động, truyền dạy, sưu tầm tài liệu.

Hà Nội cũng là địa phương có số lượng nghệ nhân được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân và Nghệ nhân Ưu tú lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể nhiều nhất cả nước. Đây là sự quan tâm tới các nghệ nhân, những người giữ vai trò quan trọng trong sáng tạo, sở hữu, bảo tồn và truyền dạy các giá trị văn hóa dân gian.
Song, bước đột phá trong các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của Hà Nội phải kể đến việc ban hành Nghị quyết số 23/2022/NQ-HĐND của HĐND thành phố Quy định chế độ đãi ngộ, hỗ trợ Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú, Nghệ nhân và Câu lạc bộ (CLB) tiêu biểu trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể (Nghị quyết 23) qua đó góp phần nâng cao năng lực bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể từ cấp cơ sở. Nghị quyết 23 gồm 3 trụ cột chính: Hỗ trợ nghệ nhân, hỗ trợ CLB thực hành di sản, hỗ trợ việc truyền dạy và luyện tập. Theo đó, cùng với việc hỗ trợ kinh phí đãi ngộ một lần từ 30 đến 40 triệu đồng cho Nghệ nhân Ưu tú, Nghệ nhân Nhân dân, các nghệ nhân còn được hỗ trợ kinh phí theo từng buổi truyền dạy với mức từ 300 đến 500 nghìn đồng/người… Các CLB đáp ứng được yêu cầu được nhận kinh phí hỗ trợ khi thành lập mới là 50 triệu đồng/CLB và hoạt động thường xuyên là 20 triệu đồng/CLB mỗi năm.
Năm 2024, UBND Thành phố Hà Nội cũng đã ban hành Kế hoạch số 294/KH-UBND về việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố đến năm 2025 và các năm tiếp theo. Trong đó, đối với di sản văn hóa phi vật thể, Kế hoạch đặt ra nhiệm vụ tập trung sưu tầm, xác định danh mục các di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu Thành phố đặc biệt quan trọng và cần được lưu giữ, phát huy giá trị; Xây dựng Hồ sơ khoa học các di sản văn hóa phi vật thể có giá trị tiêu biểu hoặc các di sản có nguy cơ mai một, cần được bảo vệ khẩn cấp để ghi danh vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, di sản thế giới; Tổ chức các lớp truyền dạy thực hành di sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng; Bảo tồn và phát huy giá trị các làng truyền thống tiêu biểu, để kết hợp với phát triển kinh tế du lịch...
Theo TS. Trần Thị Minh Thu, Trưởng Ban Nghiên cứu Nghệ thuật, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam, nhờ những chính sách thực thi hiệu quả mà trong thời gian qua, nhiều di sản văn hóa đã được giữ gìn, phát huy giá trị. Nhiều người thực hành di sản đã được công nhận, vinh danh là Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú, Nghệ nhân Dân gian, Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú. Họ được tạo điều kiện kế thừa, thực hành, truyền dạy và tái sáng tạo. Nhiều di sản nghệ thuật truyền thống được sưu tầm, tư liệu hóa, phục dựng, chỉnh lý, cải biên và không ngừng được quảng bá, phát huy, lan tỏa trong xã hội đương đại.

Song, ghi nhận từ thực tế cho thấy, dù đã có nhiều chính sách "đòn bẩy" nhưng hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tại một số địa bàn vẫn còn nhiều khó khăn.
Kế tục đội Tuồng trên 100 tuổi của ông cha, CLB Tuồng Lương Quy, xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh, Hà Nội hiện có 6 nghệ nhân và khoảng 30 diễn viên là cộng tác viên cốt cán. Đam mê Tuồng, các thành viên trong CLB tự bỏ tiền đầu tư trang phục, đạo cụ và bất kể lúc nào nhận được lời mời là lên đường đi biểu diễn.
Anh Ngô Văn Bình, Nghệ nhân Ưu tú, Phó Chủ nhiệm CLB Tuồng Lương Quy cho biết: Chúng tôi đánh giá cao sự quan tâm của Nhà nước, Thành phố thông qua các chính sách hỗ trợ bảo tồn di sản văn hóa. Tuy nhiên, hiện nay, khó khăn của CLB vẫn còn nhiều. Đa phần diễn viên của CLB đều tham gia trên tình thần tự nguyện, diễn Tuồng vì đam mê chứ hoàn toàn không có thu nhập. Một năm, trừ khi có kỳ cuộc cần biểu diễn CLB mới tập hợp thành viên luyện tập, còn lại, CLB chưa sinh hoạt định kỳ được vì diễn viên bận mưu sinh. Việc tập luyện thường xuyên, dù là rất tốt cho nghề nhưng còn liên quan đến mượn địa điểm, chi phí điện, nước của địa phương, thuê âm thanh, đạo cụ... Kinh phí Nhà nước hỗ trợ 20 triệu đồng/năm rất đáng quý nhưng vẫn chưa đủ để trang trải cho hoạt động, chẳng hạn chỉ tính riêng tiền mua một bộ Giáp tốt phục vụ diễn Tuồng cũng đã tốn kém hơn như thế.
Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Thế Lộc, 68 tuổi, thành viên cao tuổi nhất thì rất buồn khi CLB chưa xây dựng được lực lượng kế cận. "Chúng tôi có đủ đam mê, luôn sẵn sàng truyền dạy nghệ thuật Tuồng cho thế hệ sau nhưng lại có rất ít người muốn theo học. Trên địa bàn, nhiều cha mẹ cũng không cho con em học Tuồng truyền thống vì thấy mất thời gian. Người xưa có câu: "Thầy giáo già, con hát trẻ", nhưng bây giờ, với nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống thì "thầy giáo già, con hát cũng già".

Một trăn trở khác của các mô hình trình diễn nghệ thuật truyền thống chính là thiếu không gian diễn xướng. CLB Tuồng Lương Quy một năm cũng chỉ có vài cơ hội được biểu diễn tại hội làng, hội nghị theo kỳ cuộc của địa phương... Anh Ngô Văn Bình, Nghệ nhân Ưu tú, Phó Chủ nhiệm CLB Tuồng Lương Quy chia sẻ, có đôi lần, một vài diễn viên của CLB được mời tham gia biểu diễn Tuồng cùng các nghệ sĩ của nhà hát Tuồng Việt Nam ở đền thờ Hai Bà Trưng, huyện Mê Linh, hoặc phụ họa hát Quan họ, Chèo, hát Văn... giữa các trích đoạn Tuồng của Nhà hát ở khu vực phố cổ, quận Hoàn Kiếm. "Nhưng, đó chỉ là cơ hội hiếm hoi. Với CLB Tuồng Lương Quy, việc tổ chức lưu diễn (miễn phí) tại các không gian văn hóa lớn để lan tỏa nghệ thuật văn hóa truyền thống tới công chúng là không thể, nếu như không có nguồn kinh phí tài trợ", anh Bình nói.
Tại CLB, hiện chỉ có duy nhất Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Hữu Tụy làm được một việc mà nhiều nghệ nhân, diễn viên ao ước: Đó là một mình diễn tới khoảng 70 suất Tuồng/năm. Tuy nhiên, đó là nhờ ông tham gia tới 10 đội Tuồng của địa phương và khắp các tỉnh/thành bạn. Gia đình cũng ủng hộ, thay ông gồng gánh lo toan thường nhật nên ông mới được tự do lên đường, thỏa chí đam mê với Tuồng.
Ông tâm sự: Làm nghệ thuật Tuồng rất vất vả. Khi mới đến với Tuồng, ông mất tới 4 năm chỉ phụ việc, ngồi ngoài quan sát, học hỏi các diễn viên cha chú biểu diễn. Tại CLB Tuồng Lương Quy, để đào tạo được một diễn viên Tuồng diễn tốt cũng phải mất cả năm trời. Vậy mà khi thành nghề, diễn viên gần như không có nhiều cơ hội biểu diễn, lâu dần khả năng cũng mai một. Còn nếu thi thoảng được mời biểu diễn tại các kỳ cuộc, CLB chỉ được diễn trích đoạn rất ngắn nên không lột tả được hết vẻ đẹp, ý nghĩa của Tuồng tới người xem. Thiếu không gian, cơ hội để cọ sát, biểu diễn chính là nỗi khổ tâm và buồn nhất của diễn viên.
Clip: Dưới cái nóng của mùa hè, Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Hữu Tụy miệt mài truyền dạy diễn Tuồng. Theo ông, đào tạo được một diễn viên Tuồng mất cả năm trời nhưng sau đó diễn viên lại thiếu không gian, cơ hội để cọ sát, biểu diễn.
“Hồi sinh một di sản văn hóa phi vật thể đã khó, sau đó, làm thế nào để di sản “sống tốt’ còn khó hơn vạn lần. Chúng tôi không thiếu tình yêu, tâm huyết với di sản và đang rất nỗ lực để gìn giữ, bảo vệ di sản. Nhưng, sức sống của di sản không chỉ trông chờ vào tâm huyết của các nghệ nhân, người dân”- Nghệ nhân Ưu tú Tuồng Nguyễn Hữu Tụy, CLB Tuồng Lương Quy cho biết.

Xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội là quê hương của môn nghệ thuật truyền thống Chèo. Song, loại hình di sản văn hóa phi vật thể này cũng đang tồn tại với nhiều thăm trầm. Cuối những năm 1990 đầu những năm 2000, trong bối cảnh các môn nghệ thuật truyền thống đứng trước nguy cơ bị mai một, CLB Chèo Đồng Ấu xã Vân Hà đã tiên phong ra đời. CLB tập hợp trên 10 cháu độ tuổi từ 11 đến 13 tham gia tập luyện và đã đóng được trích đoạn vở Chèo "Nghêu- Sò- Ốc- Hến" tham gia hội diễn tại huyện Đông Anh. Sau đó, do không có kinh phí, CLB Chèo Đồng Ấu dừng hoạt động, để lại nhiều tiếc nuối.
Luôn mong muốn bảo tồn làn điệu Chèo truyền thống, nhưng CLB Chèo xã Vân Hà đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động. (Video: Trích đoạn tiết mục biểu diễn của CLB)
Năm 2007, CLB Chèo xã Vân Hà được chính quyền địa phương ra Quyết định thành lập nhưng cũng sớm tan giã. 10 năm sau, CLB có Quyết định thành lập trở lại và hoạt động đến bây giờ. Song, theo ông Nguyễn Xuân Hiếu, Chủ nhiệm CLB, hiện nay, CLB đang rơi vào tình cảnh hoạt động khó khăn. Giai đoạn cực thịnh, số lượng thành viên tham gia CLB khoảng hơn 40 người, giờ chỉ còn khoảng trên 20 thành viên từ 50 - 60 tuổi; 3, 4 người trẻ nhất cũng đã ở ngưỡng trung niên, lớp trẻ hơn không tham gia. CLB không có đội ngũ kế cận, cũng chưa được hỗ trợ kinh phí hoạt động (nguyên nhân từ đâu ông Hiếu chưa rõ). Trong khi đó, tiền thuê nhạc công để tập luyện từ 200.000 – 400.000 đồng/người/buổi mà mỗi lần thuê tối thiểu cần 4 cây trống, 1 nhị, 1 đàn, 1 sáo. Thuê thầy về dàn dựng các trích đoạn, vở, hoạt cảnh Chèo cũng cần phải có kinh phí. Tiền không, tập luyện xong thì ít có chương trình để biểu diễn nên anh chị em diễn viên không có động lực.
Ông Hiếu nói thêm: “Xã Vân Hà từng có tới 2 CLB Chèo truyền thống ở 2 thôn Hà Khê, Thiết Bình... Nay “co” lại chỉ còn 1 CLB Chèo của xã. Nếu chúng tôi dừng hoạt động thì có nghĩa không còn mô hình bảo tồn loại hình nghệ thuật truyền thống Chèo trên địa bàn nữa”.

May mắn không bị tan giã như CLB Chèo Đồng Ấu, nhưng bà Đỗ Thanh Hằng, Chủ nhiệm CLB Tuồng Đồng Ấu, thôn Đường Yên, xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh, Hà Nội cũng mong mỏi có thêm nhiều không gian diễn xướng Tuồng, các hội thi... cho các cháu thiếu nhi. Theo bà, các cháu học Tuồng rồi... để đó thì khả năng diễn Tuồng cũng rơi rụng. Thực tế, có nhiều cháu đã theo học Tuồng tới lớp 9 nhưng khi lên THPT là bỏ luôn. Vì vậy, việc đào tạo nguồn kế cận cho môn nghệ thuật truyền thống Tuồng vẫn còn nhiều khó khăn.


Theo Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Quang Thanh, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, có thể thấy thời gian qua, Nhà nước đã thực sự quan tâm đến công tác bảo tồn, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đáp ứng nhu cầu gìn giữ di sản truyền thống, xây dựng đời sống kinh tế văn hóa, phát triển du lịch ở hầu khắp các địa phương. Hàng loạt các Bộ luật (Luật Di sản văn hóa, Luật Tín ngưỡng – Tôn giáo, Luật Bảo vệ tài nguyên – môi trường, Luật Thi đua – khen thưởng,..) cùng các văn bản chính sách, cơ chế, các chương trình mục tiêu phát triển văn hóa, chiến lược phát triển văn hóa đã được ban hành.
Tuy nhiên công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiện vẫn còn không ít hạn chế, cần có giải pháp thích hợp để ngăn chặn tình trạng nhiều CLB, mô hình gặp khó khăn trong hoạt động như thiếu lớp kế cận, thiếu không gian diễn xướng, thiếu kinh phí để hoạt động...

Có một số nguyên nhân như: Một là, chúng ta vẫn chưa có được những chính sách thực sự có hiệu lực (các chế tài tương ứng) đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Hai là, chưa có chính sách cụ thể thường xuyên đối với thành phần các thế hệ nghệ nhân (báu vật nhân văn sống) về các mặt động viên tinh thần đi kèm vật chất thường xuyên, thiết thực, coi trọng vị thế xã hội của nghệ nhân và nghệ thuật dân gian. Chúng ta cũng chưa chú tâm đến việc xây dựng không gian văn hóa để tuyền truyền, quảng bá di sản, nâng cao nhận thức về văn hóa truyền thống cho cán bộ và toàn dân.
Ths. Nguyễn Thị Phương Lan, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam cũng cho rằng, hiện nay, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chương trình nhằm bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống, nhưng nhiều chính sách vẫn chưa được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Nhiều địa phương còn thiếu nguồn kinh phí để đầu tư cho các dự án bảo tồn; các chính sách hỗ trợ nghệ nhân chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của họ, dẫn đến việc họ không có động lực để tiếp tục duy trì nghề. Những hỗ trợ về mặt tài chính và tổ chức các hoạt động quảng bá nghệ thuật truyền thống chưa đáp ứng đủ yêu cầu thực tế, khiến việc bảo tồn trở nên khó khăn.

Đặc biệt, hiện nay, việc thực thi chính sách hỗ trợ của Nhà nước lại khác nhau giữa các địa phương, phụ thuộc vào khả năng cân đối ngân sách, nguồn lực xã hội của địa phương đó. Vì vậy, nghệ nhân ở các tỉnh, thành phố có thể được nhận các chế độ ưu đãi khác nhau.
Hay như Chính phủ đã ban hành quy định của Nghị định số 109/2015/NĐ-CP của Chính phủ về việc hỗ trợ đối với Nghệ nhân Nhân dân và Nghệ nhân Ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn. Thực tế, có nhiều nghệ nhân thuộc diện được hỗ trợ theo Nghị định 109 lại đang nhận trợ cấp hàng tháng theo chính sách an sinh xã hội khác như hộ nghèo. Trong khi đó, nếu chiểu đúng theo quy định, một người không thể cùng lúc hưởng nhiều chế độ trợ cấp. Nhiều ý kiến cho rằng, đây cũng là một bất cập trong triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ nghệ nhân.

(còn nữa)