Lừa xuất khẩu lao động, chiếm đoạt 1,9 tỷ đồng của người lao động

Chia sẻ

Ngày 10/3, TAND TP Hà Nội đã đưa bị cáo Trần Thị Nữ (sinh năm 1973, trú tại xã Đông Cơ, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình) ra xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, khoản 4, Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Theo cáo trạng, Công ty Cổ phần đầu tư và hợp tác quốc tế Thăng Long, (trụ sở tại số 172, Nguyễn Ngọc Vũ, Thanh Xuân, Hà Nội) được Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Nội cấp Giấy phép cho phép đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài. Ngày 30/1/2018, Công ty thành lập cơ sở đào tạo xuất khẩu lao động với chức năng đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài, hướng dẫn người lao động hoàn thiện các thủ tục trước khi bay. Cơ sở không thu bất kỳ khoản tiền nào của người lao động ngoài tiền học phí đào tạo ngoại ngữ.

Bị cáo tại tòaBị cáo tại tòa

Ngày 30/1/2018, Trần Thị Nữ vào thử việc tại công ty với thời hạn 2 tháng. Nữ được giao nhiệm vụ phụ trách cơ sở đào tạo xuất khẩu lao động trên. Ngày 30/3/2018, sau khi hết thời gian thử việc, Trần Thị Nữ được công ty ký hợp đồng lao động, thời hạn 12 tháng.

Mặc dù hiểu rõ quy chế làm việc của công ty, cũng như quy định của cơ sở đào tạo xuất khẩu lao động không được phép tiếp nhận hồ sơ và tiền của cá nhân có nhu cầu đi xuất khẩu lao động, nhưng do cần tiền chi tiêu cá nhân, Trần Thị Nữ đã lợi dụng chức trách, nhiệm vụ được giao, đưa ra thông tin gian dối với một số cá nhân về việc Nữ quen người làm ở Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, có thể giúp đi lao động tại Hàn Quốc với chi phí 14.5000 USD/người; cam kết trong 2 tháng sẽ được đi, nếu không đúng cam kết, Nữ sẽ hoàn trả lại số tiền đã nộp.

Ngoài ra, để người lao động tin tưởng liên hệ nộp tiền, Nữ còn giới thiệu về khả năng xin được visa đi lao động Hàn Quốc theo diện du lịch, đặt cọc 20 triệu đồng/trường hợp.

Với thủ đoạn trên, trong thời gian từ tháng 4/2018 đến tháng 10/2018, Trần Thị Nữ đã nhận tiền của 9 người bị hại, không thực hiện như hứa hẹn mà chiếm đoạt hơn 1,9 tỷ đồng.

Cụ thể, năm 2016, Trần Thị Nữ giới thiệu cho anh C đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Cuối năm 2017, anh C về nước nhờ bà T.T.Q, (sinh năm 1963, ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, là mẹ đẻ của C) đến gặp Nữ để nhận lại số tiền đặt cọc là 17,8 triệu đồng. Khi trả lại tiền đặt cọc cho bà Q, Nữ nói có người quen ở Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, có thể đưa người đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc làm thuyền viên với chi phí là 14,5 USD/người, cam kết trong thời hạn 2 tháng nếu không đi được sẽ trả lại đủ số tiền đặt cọc.

Nữ thỏa thuân với bà Q nếu bà giới thiệu người đến cho Nữ thì sẽ giảm chi phí cho anh Cảnh. Do tin tưởng Nữ, bà Q đồng ý nộp hồ sơ và tiền cho Nữ để lo thủ tục cho anh Cảnh đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc và giới thiệu một số người thân quen ở tỉnh Hà Tĩnh biết để liên hệ với Nữ làm thủ tục xuất khẩu lao động.

Ngày 26/4/2018 và ngày 1/6/2018, bà Q nhiều lần chuyển tiền vào tài khoản của Nữ, tổng số tiền là 217 triệu đồng, Sau khi nhận tiền. Nữ không làm thủ tục cho anh Võ Văn C đi xuất khẩu lao động như cam kết mà chiếm đoạt luôn số tiền để sử dụng vào mục đích cá nhân.

Thông qua bà Q giới thiệu và các mối quan hệ cá nhân khác, Trần Thị Nữ còn chiếm đoạt của anh T.Đ.C (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) số tiền gần 330 triệu đồng; T.X.D 329 triệu đồng; N.M.T số tiền 334 triệu đồng… và nhiều bị hại khác. Đến nay, tất cả các bị hại đều không nhận được tiền bồi thường từ Nữ.

Tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy, hành vi của bị cáo Nữ là đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội từ 2 lần trở lên, cần xử phạt nghiêm để đủ sức răn đe. Tuy nhiên, bị cáo có thân nhân tốt, thành khẩn khai báo, gia đình có công với cách mạng, hoàn cảnh khó khăn, mẹ đơn thân nuôi con nên Tòa xem xét để giảm nhẹ hình phạt. Sau nghị án, TAND TP Hà Nội tuyên phạt bị cáo Trần Thị Nữ mức án 14 năm tù với đúng tội danh đã truy tố.

 AN TÚ

Tin cùng chuyên mục

Xét xử cựu Giám đốc Công an TP Hải Phòng: Nhận tội nhưng không nhận lừa tiền

Bị cáo Đỗ Hữu Ca nhận tội nhưng không nhận lừa tiền

Bị cáo Đỗ Hữu Ca – cựu Giám đốc Công an TP Hải Phòng bị xét xử về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trước toà, bị cáo thừa nhận cáo trạng mô tả hành vi phạm tội của mình là đúng, phù hợp với kết luận điều tra nhưng khi nói lời sau cùng lại khẳng định không lừa tiền vợ chồng Đước.