“Dấu ấn Nguyễn Thị Bình” và kỳ tích ngoại giao Việt Nam
(PNTĐ) - Ngày 27/1/1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết tại Paris, Pháp giữa bốn bên: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mỹ, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa. Đây là kỳ tích trên lĩnh vực ngoại giao, có tính chất quyết định để Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, thu non sông về một mối. Một trong số những người chủ chốt góp phần làm nên thắng lợi của ta trên bàn đàm phán là bà Nguyễn Thị Bình, người sau này trở thành Phó Chủ tịch nước.
Bà Nguyễn Thị Bình, tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa, sinh ngày 26/5/1927 tại Sa Đéc (Đồng Tháp). Bà là cháu ngoại của nhà chí sĩ yêu nước nổi tiếng Phan Châu Trinh. Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, bà tích cực tham gia hoạt động cách mạng từng bị địch bắt, tù đày, chịu nhiều hình thức tra tấn dã man nhưng vẫn một lòng kiên trung với cách mạng. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Năm 1961, bà Bình khi đó đang công tác tại Trung ương Hội LHPN Việt Nam đã được Ban Thống nhất cử sang tham gia hoạt động ngoại giao cho Mặt trận. Bà trở thành Vụ phó, sau đó là Vụ trưởng Vụ 1A phụ trách công tác đối ngoại nhân dân của Mặt trận và đổi tên là Nguyễn Thị Bình, cái tên mang hàm ý về khát vọng hòa bình. Sau gần 6 năm hoạt động đối ngoại, bà Bình đã được chọn tham gia Đoàn đàm phán tại Paris nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Tháng 11 năm 1968, bà Bình rời Hà Nội tới Paris, bắt đầu hành trình đàm phán kéo dài nhất và cũng cam go nhất trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam.
Cuộc đấu trí cam go của chính nghĩa
Bà Nguyễn Thị Bình nhớ lại: Quá trình đàm phán Hiệp định Paris được mở đầu bằng việc đấu tranh về... “cái bàn”, hình ảnh đại diện cho pháp nhân của các bên tham gia đàm phán. Phía ta khẳng định, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện cho nhân dân miền Nam đang trực tiếp chống Mỹ nên phải là một bên đàm phán. Trong khi đó, theo phía Mỹ, Mặt trận là “người của miền Bắc” muốn lật đổ “quốc gia ở miền Nam”. Ta nói chính quyền Sài Gòn là do Mỹ dựng lên, là tay sai của Mỹ. Chúng ta yêu cầu 1 bàn vuông cho bốn bên đàm phán hoặc một bàn tròn chia bốn. Mỹ đòi một bàn chữ nhật có hai bên hoặc một bàn tròn chia đôi.
Cuối cùng, hai bên thống nhất là một bàn tròn to, đường kính 8m, cắt đôi, trải khăn bàn màu xanh, mỗi bên một vạch phân chia nằm bên ngoài, như vậy ai hiểu là hai bên hay bốn bên cũng được.
Bước vào đàm phán, phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngồi sát nhau như một bên, càng cho thấy chính quyền Sài Gòn là tay sai của Mỹ, không thể đại diện cho nhân dân miền Nam. Còn phía ta gồm đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngồi thành hai đoàn riêng biệt
Bà Bình cho biết, việc Mỹ buộc phải công nhận hai đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tham gia đàm phán là một thất bại lớn của Mỹ. Về phía ta, đã chứng minh hai thực thể này đều đại diện cho cuộc chiến đấu chung vì độc lập, tự do của dân tộc dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Đây là một thắng lợi chiến lược của ta.
Ngày 25/1/1969, Hội nghị bốn bên chính thức bắt đầu. Trong quá trình đàm phán bốn bên ở Paris, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với tư cách đại diện của nhân dân miền Nam đang trực tiếp chiến đấu đã đưa ra giải pháp chính trị nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình còn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với tư cách đại diện cho nhân dân miền Bắc, hậu phương của cuộc chiến đấu luôn đề cao vai trò của Mặt trận, ủng hộ mọi giải pháp do Mặt trận đưa ra. Còn phía Mỹ thì né tránh, đẩy cho đoàn chính quyền Sài Gòn trả lời.
Ngày 6/6/1969, 8 năm sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, nhận thấy đã đến lúc thành lập chính phủ để có tiếng nói chính thức của nhân dân miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập. Đứng đầu Chính phủ là kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Bà Nguyễn Thị Bình được cử làm Bộ trưởng Ngoại giao, đồng thời làm Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị bốn bên ở Paris.
Những tháng ngày sau đó tiếp tục là những cuộc đấu trí trên bàn đàm phán. Phía ta liên tục đưa ra những nước đi ngoại giao khéo léo, mềm dẻo, linh hoạt. Ngày 17/9/1970, tại bàn đàm phán, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra 8 điểm, đòi Mỹ rút hết quân trước ngày 30/6/1971 và thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời ở miền Nam. 8 điểm gây tiếng vang lớn ở các đô thị miền Nam và được dư luận thế giới hoan nghênh.
Ngày 1/7/1971, đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra kế hoạch nổi tiếng 7 điểm, yêu cầu Mỹ rút hết quân đi đôi với việc thả tù binh; chính quyền Sài Gòn phải từ chức và nhường chỗ cho một chính quyền mới sẵn sàng bàn bạc với Chính phủ Cách mạng lâm thời để lập ra Chính phủ hòa hợp dân tộc. Sáng kiến này đã gây chấn động mạnh, được dư luận thế giới hoan nghênh, chính phủ nhiều nước lên tiếng ủng hộ.
Đến những tháng cuối năm 1971, đầu năm 1972, đàm phán vẫn đang ở thế bế tắc. Ngày 11/01/1972, bà Bình được chỉ thị đưa ra Tuyên bố 2 điểm: Rút quân Mỹ, thành lập ở miền Nam một chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần: Chính phủ Cách mạng lâm thời, chính quyền Sài Gòn và thành phần thứ ba. Vậy là lập trường 7 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời cùng 2 điểm nói thêm, nhấn mạnh đến yêu cầu Mỹ phải rút quân, để các bên Việt Nam ở miền Nam giải quyết vấn đề nội bộ của mình, tiếp tục được đánh giá là một chủ trương chiến lược sáng suốt và đúng lúc.
Đến tháng 10/1972, hai bên đã thỏa thuận về cơ bản một dự thảo và dự định đến ngày 30/10/1972 sẽ ký Hiệp định Paris nhằm chấm dứt chiến tranh. Đoàn miền Nam tăng cường các cuộc tiếp xúc để làm cho dư luận rõ thêm lập trường của ta, tố cáo địch ngoan cố muốn kéo dài chiến tranh. Tuy nhiên, đầu tháng 11/1972, khi Nixon thắng cử tại cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, ông ta liền đòi sửa lại nội dung Hiệp định. Để buộc Việt Nam chấp nhận, Mỹ đã tiến hành cuộc không kích 12 ngày đêm từ 18/12 đến 31/12/1972 bằng B52 xuống Hà Nội và một số địa phương khác. “Tại Paris, chúng ta tuyên bố ngừng đàm phán để phản đối và hồi hộp theo dõi tình hình trong nước, rồi vỡ òa khi cuộc không kích của Mỹ đã bị quân dân ta đánh bại. Vậy là chúng ta đã đạt được thắng lợi to lớn buộc Mỹ phải ký HIệp định hòa bình, chấp thuận rút quân khỏi Việt Nam.
“Sáng 27/01/1973, trước nhà hội nghị, hàng ngàn người - kiều bào ta, bạn bè Pháp và các nước - vẫy chào chúng tôi giữa một rừng cờ. Tôi bước vào phòng họp, rất hồi hộp... Đúng 10 giờ, bốn Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Nguyễn Duy Trinh), Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Nguyễn Thị Bình), Mỹ (William P. Rogers), Việt Nam Cộng hòa (Trần Văn Lắm) ngồi vào bàn. Mỗi người ký vào 32 văn bản của Hiệp định”, bà Nguyễn Thị Bình nhớ lại.
“Đặt bút ký vào bản Hiệp định Paris lịch sử, tôi vô cùng xúc động... Tôi như thay mặt nhân dân và các chiến sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam làm nhiệm vụ đấu tranh trên tiền tuyến và trong lao tù cắm ngọn cờ chiến thắng chói lọi. Vinh dự đó đối với tôi thật quá to lớn. Tôi không có đủ lời để nói lên được lòng biết ơn vô tận đối với đồng bào và chiến sĩ ta từ Nam chí Bắc đã chấp nhận mọi hy sinh dũng cảm chiến đấu để có được thắng lợi to lớn hôm nay, biết ơn Bác Hồ và cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tin cậy giao cho tôi nhiệm vụ khó khăn nhưng rất vẻ vang này. Tôi muốn nói lời cảm ơn sâu sắc bà con Việt kiều tại Pháp và các nước xung quanh, cảm ơn bạn bè quốc tế đã hết lòng vì cuộc chiến đấu của chúng ta...”.
Một tuần sau chiến thắng của ta trên bàn đàm phán Hiệp định Paris, bà Bình đã cùng các thành viên trong Đoàn và đông đảo bà con Việt kiều tại Pháp vui mừng đón Tết Quý Sửu. Đó là cái Tết thứ năm và cũng là Tết cuối cùng của đoàn đàm phán trên đất Pháp.
Dấu ấn của “bóng hồng” duy nhất tại bàn đàm phán
Cuộc đàm phán chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam là cuộc đàm phán dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam với 202 phiên họp chung công khai, 45 cuộc họp cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn trong thời gian hơn 4 năm từ năm 1968 đến năm 1973. Trong quá trình đó, bà Nguyễn Thị Bình - thành viên nữ duy nhất tham gia đàm phán đã khiến thế giới phải ngưỡng mộ nhờ tài ngoại giao khéo léo, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết của mình.
Bà Bình cho biết: Trong 4 phái đoàn ở Hội nghị thì chỉ có đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam có thành viên nữ là bà và một số cán bộ nữ khác (như bà Nguyễn Thị Chơn, Nguyễn Ngọc Dung…). Đảm nhiệm trọng trách tham gia đàm phán, bà cũng không tránh khỏi cảm giác lo lắng rồi bà luôn tâm niệm phải nỗ lực hết sức mình. Rời Hà Nội sang Paris vào tháng 11/1968, để lại gia đình ở trong nước với bao tình cảm, nỗi lo và rủi ro thời chiến, bà mang theo bản Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, các tài liệu về phương án đấu tranh và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh do các đồng chí Ban Thống nhất truyền đạt lại: Trong đấu tranh phải luôn giữ vững lập trường nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Sau này, bà đã luôn vận dụng nguyên tắc này trong quá trình đàm phán. Để có được lý lẽ sắc bén, bà và các thành viên trong đoàn còn phải nghiên cứu lịch sử thế giới, lịch sử Việt Nam.
Bên cạnh đó, Đoàn còn phải tiếp xúc với báo chí. Bà Bình nhớ nhất cuộc gặp mặt báo chí trên truyền hình trực tiếp vào năm 1971.
“Truyền hình Pháp có sáng kiến tổ chức cuộc họp báo ở hai đầu Paris và Washington. Có 20 nhà báo tham gia, 10 người phần lớn là Mỹ coi như bảo vệ lập trường của Mỹ, 10 người khác phần lớn là Pháp coi như trung lập, khách quan. Khi được mời, tôi có phần ngần ngại, nghĩ mình chỉ có một mình giữa bao nhiêu nhà báo sừng sỏ không quen biết, lại phải tranh luận bằng tiếng Pháp. Đồng chí Dương Đình Thảo, người phát ngôn của Đoàn và anh chị em động viên tôi, coi đây là dịp rất tốt để ta giới thiệu trước toàn thế giới lập trường chính nghĩa của ta và vạch âm mưu, tội ác của Mỹ, nên phải hết sức tận dụng. Gần hai tiếng đồng hồ căng thẳng dưới ánh đèn sáng chói của trường quay. Các nhà báo chủ yếu xoay quanh lập trường của Mỹ và Việt Nam tại bàn đàm phán. Tuy hồi hộp, song tôi vẫn cố gắng bình tĩnh đối đáp đàng hoàng, mạnh mẽ nhưng hòa nhã,nêu rõ thiện chí của chúng ta muốn tìm giải pháp chính trị, chấm dứt đau khổ của nhân dân, và cũng kiên quyết đến cùng vì tự do, độc lập và thống nhất thiêng liêng của đất nước... Kết thúc họp báo tôi thở phào vì đã hoàn thành một nhiệm vụ phức tạp. Đồng chí Xuân Thủy, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris điện thoại khen: “Cô rất dũng cảm”. Nhiều bạn Pháp, nhất là các bạn nữ thì gọi điện hoan hô, coi đây là một thành công quan trọng. Nhiều ngày sau, báo chí còn tiếp tục nói đến sự kiện này”.
Sau chiến thắng tại bàn đàm phán, đoàn công tác rời Paris về nước vào đầu tháng 4/1973. Bà Bình nhớ lại, cuộc tiễn đưa tại sân bay Bourget - cũng đúng là nơi hơn 4 năm về trước bà đã bước chân đến để tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam, thật xúc động. Bà con Việt kiều, bạn bè Pháp, các nhà báo Pháp và đại diện các nước quen thân đến rất đông. Ai cũng nhớ hình ảnh của một nữ chính trị gia, nhà ngoại giao tài ba đến từ Việt Nam. Các chị phụ nữ Pháp ôm lấy bà nghẹn ngào: “Chúng tôi sẽ rất nhớ Bình. Từ đây chúng tôi không còn được thấy hình ảnh Bình mỗi ngày thứ Năm trước các nhà báo Pháp ở Trung tâm hội nghị Kléber vẫy gọi “Bà Bình hãy cười lên!”.
Sau này, đôi lúc rảnh rỗi, giở lại cuốn sổ ghi vắn tắt các hoạt động của đoàn đàm phán Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Paris, bà Bình chia sẻ, thấy rất nhiều những chữ viết tắt, có chỗ chính tôi cũng không còn đọc ra được, tôi ngạc nhiên không thể tưởng tượng khối lượng công việc của chúng tôi những năm tháng ấy nhiều như vậy.
Năm 1961, khi cử bà Bình sang tham gia hoạt động ngoại giao cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Ban Thống nhất dự kiến trong thời gian 6 tháng. Song, cuối cùng, hành trình trở thành nhà ngoại giao của bà đã kéo dài trong suốt 14 năm, đến năm 1976 khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
Đến giờ, ở tuổi 98 với 79 năm tuổi Đảng, bà vẫn luôn được nhớ tới là một nhà nữ chính trị gia, nữ ngoại giao xuất sắc có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Bà đã cùng dân tộc đi qua hai cuộc chiến tranh và sau này, ở cương vị Phó Chủ tịch nước, bà lại tiếp tục góp sức vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước Việt Nam giàu mạnh.