Thay đổi nhận thức xã hội về phụ nữ trong khoa học công nghệ thông qua truyền thông

HOÀNG LAN (lược ghi)
Chia sẻ

(PNTĐ) - Báo chí là một kênh thông tin mạnh mẽ, không chỉ truyền tải các câu chuyện về thành công của phụ nữ mà còn tạo ra không gian để tôn vinh và thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các ngành Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học (STEM). Thông qua các bài viết, phóng sự hoặc chiến dịch truyền thông, báo chí giúp xóa bỏ định kiến giới, khuyến khích phụ nữ tự tin theo đuổi đam mê và thúc đẩy các chính sách hỗ trợ bình đẳng trong lĩnh vực khoa học công nghệ (KHCN).

Phụ nữ trong lĩnh vực KHCN: Thực trạng và thách thức

Trên thế giới, phụ nữ đã và đang tạo ra những dấu ấn mạnh mẽ trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, vốn được coi là thế mạnh truyền thống của nam giới. Một ví dụ nổi bật là Jennifer Doudna và Emmanuelle Charpentier, 2 nhà khoa học nữ đã được trao Giải Nobel Hóa học năm 2020 nhờ phát minh ra công nghệ chỉnh sửa gen CRISPR-Cas9, mở ra một kỷ nguyên mới cho y học và công nghệ sinh học (The Nobel Prize, 2020). Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, Radia Perlman, nhà khoa học máy tính người Mỹ, được mệnh danh là “mẹ đẻ của Internet” nhờ phát minh ra giao thức Spanning Tree Protocol (STP), nền tảng cho hoạt động của các mạng máy tính hiện đại (MIT Technology Review, 2014). Những thành tựu này cho thấy phụ nữ không chỉ tham gia mà còn dẫn dắt các đột phá công nghệ quan trọng, đóng vai trò không thể thiếu trong việc giải quyết các thách thức toàn cầu như y tế, môi trường và an ninh mạng.

Tại Việt Nam, phụ nữ cũng ngày càng khẳng định vai trò trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong tổng số các nhà khoa học, phụ nữ chiếm khoảng 44%, một tỷ lệ cao so với mặt bằng khu vực Đông Nam Á (Bộ KH&CN, 2022). Điều này cho thấy lực lượng nữ trí thức đang dần trở thành một bộ phận chủ chốt trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và đổi mới sáng tạo.

Một trong những tấm gương điển hình là GS.TS. Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, người phụ nữ đầu tiên giữ vị trí này trong lịch sử hơn 60 năm của trường. Bà là chuyên gia đầu ngành về thú y, với nhiều công trình nghiên cứu về vaccine và phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm. Trong giai đoạn dịch tả lợn châu Phi hoành hành tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu của bà đã góp phần phát hiện, phân tích và đưa ra các giải pháp khống chế dịch bệnh, góp phần ổn định ngành chăn nuôi.

Thay đổi nhận thức xã hội về phụ nữ trong khoa học công nghệ thông qua truyền thông - ảnh 1
Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Phượng là người Việt Nam duy nhất được vinh danh với Giải thưởng Ramon Magsaysay - “giải Nobel châu Á” - năm 2024

Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Phượng là người Việt Nam duy nhất được vinh danh với Giải thưởng Ramon Magsaysay - “giải Nobel châu Á” - năm 2024 nhờ những đóng góp to lớn trong nghiên cứu tác hại của chất độc da cam/dioxin đối với sức khỏe con người, đặc biệt là sức khỏe sinh sản. Bà cũng là người tiên phong đưa kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm về Việt Nam và đã có nhiều cống hiến trong việc chăm sóc sức khỏe của các nạn nhân chất độc da cam.

Ngoài ra, nhiều nhà khoa học nữ khác cũng có những sáng kiến nổi bật mang tính ứng dụng cao. Tiến sĩ Nguyễn Thụy Bá Linh, chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ vật liệu sinh học, là người phụ nữ đầu tiên của Việt Nam vinh dự nhận giải thưởng TechWomen 100 năm 2024. Chị nổi bật với những nghiên cứu về công nghệ polycaprolactone và sáng lập công ty SmileScaff, chuyên ứng dụng vật liệu sinh học trong y học, giúp cải thiện tốc độ chữa lành vết thương.

Không chỉ đóng vai trò ở tuyến đầu nghiên cứu, phụ nữ còn tham gia tích cực vào đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp KHCN. Năm 2022, chị Nguyễn Thị Hương, Giám đốc Công ty khởi nghiệp BioHiTech, đã phát triển thành công các sản phẩm tẩy rửa hữu cơ từ vi khuẩn có lợi, vừa bảo vệ môi trường vừa an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng. Dự án của chị đã đạt giải cao tại Techfest Việt Nam và đang trong quá trình thương mại hóa tại thị trường ASEAN.

Tuy nhiên, những thành tựu của phụ nữ trong KHCN vẫn chưa được công nhận tương xứng. Dù chiếm 33% lực lượng lao động nghiên cứu khoa học trên toàn cầu nhưng tỷ lệ này không đồng đều giữa các quốc gia và lĩnh vực. Ví dụ, trong các ngành kỹ thuật và công nghệ thông tin (IT), tỷ lệ phụ nữ thường thấp hơn nhiều so với các ngành như sinh học hoặc y học. Chỉ 28% sinh viên trong các ngành STEM là nữ. Con số này phản ánh rõ sự thiếu cân bằng giới trong các lĩnh vực quan trọng của phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo (UNESCO, 2021a). Ở một số quốc gia phát triển, các chính sách hỗ trợ bình đẳng giới trong KHCN đã đạt được những thành tựu đáng kể. Ví dụ, tại các nước Bắc Âu như Thụy Điển và Na Uy, phụ nữ chiếm gần 50% số lượng nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, ở các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ này rất thấp, thậm chí chưa đạt 20% ở một số khu vực châu Phi hoặc Nam Á. Điều này cho thấy sự chênh lệch lớn về cơ hội tiếp cận giáo dục và nghề nghiệp trong lĩnh vực KHCN trên toàn cầu. Theo Hội LHPN Việt Nam (2024), phụ nữ thường chiếm tỷ lệ thấp trong các vị trí lãnh đạo phòng, ban nghiên cứu; tỷ lệ đứng tên chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước mới chỉ khoảng 25%. Ngoài ra, gánh nặng kép về gia đình và định kiến giới vẫn là những rào cản khiến phụ nữ khó toàn tâm theo đuổi con đường khoa học lâu dài.

Thêm vào đó, mặc dù có nhiều đóng góp đáng kể, phụ nữ vẫn gặp không ít rào cản trong tiếp cận cơ hội, thăng tiến và tiếp cận nguồn lực nghiên cứu. Những định kiến xã hội như “phụ nữ không phù hợp với các ngành kỹ thuật”, “khoa học là lĩnh vực của nam giới” vẫn tồn tại, ảnh hưởng đến sự tự tin và định hướng nghề nghiệp của nhiều nữ sinh và nữ nghiên cứu viên.

Vai trò của báo chí trong thay đổi nhận thức xã hội về phụ nữ trong KHCN

Báo chí đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến tri thức khoa học và công nghệ tới công chúng, đồng thời góp phần thay đổi nhận thức xã hội về vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực này. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số, truyền thông đại chúng không chỉ là kênh thông tin mà còn là công cụ định hướng xã hội, thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vị thế của nữ giới trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

Thay đổi nhận thức xã hội về phụ nữ trong khoa học công nghệ thông qua truyền thông - ảnh 2
Các nhà khoa học nữ tiêu biểu

Thứ nhất, báo chí là “cầu nối” giữa các nhà khoa học nữ và công chúng. Thông qua các chuyên mục khoa học, bài phỏng vấn, chương trình truyền hình hay bản tin thời sự, báo chí có thể giới thiệu rộng rãi hình ảnh những nữ trí thức tiêu biểu, từ đó truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, đặc biệt là nữ sinh theo đuổi STEM. Ví dụ, trong năm 2023, nhiều cơ quan báo chí lớn tại Việt Nam như VTV, Báo Nhân Dân, Báo Khoa học & Phát triển, và Thông tấn xã Việt Nam đã thực hiện các chuyên đề nhân Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5), trong đó tôn vinh các nhà khoa học nữ có đóng góp xuất sắc, như GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng hay GS.TS Nguyễn Thị Kim Thanh, chuyên gia hàng đầu về công nghệ nano sinh học tại Vương quốc Anh.

Thứ hai, báo chí có khả năng thay đổi nhận thức xã hội bằng cách phá vỡ các định kiến giới tồn tại lâu đời trong lĩnh vực KHCN. Việc truyền thông về các thành tựu KHCN của phụ nữ, các câu chuyện vượt qua rào cản giới và những sáng kiến thúc đẩy bình đẳng trong nghiên cứu giúp công chúng hiểu rằng năng lực khoa học không phụ thuộc vào giới tính, mà là kết quả của sự cống hiến và sáng tạo. Nghiên cứu của UNESCO (2021a) chỉ ra rằng các chiến dịch truyền thông hiệu quả có thể góp phần tăng 20%-30% sự quan tâm của học sinh nữ với các ngành STEM, đặc biệt khi nội dung truyền tải gần gũi và minh họa bằng hình mẫu thực tế.

Thứ ba, báo chí là kênh giám sát và phản biện chính sách, từ đó tạo áp lực xã hội nhằm cải thiện môi trường làm việc và nghiên cứu cho phụ nữ trong lĩnh vực KHCN. Thông qua việc phản ánh thực trạng bất bình đẳng giới, thiếu chính sách hỗ trợ, phân biệt trong cơ hội tiếp cận đề tài hoặc vị trí lãnh đạo, báo chí giúp vấn đề trở thành một phần của nghị trình công cộng, góp phần thúc đẩy hành động từ các cơ quan quản lý.

Cuối cùng, trong thời đại kỹ thuật số, báo chí còn phát huy vai trò thông qua các nền tảng đa phương tiện như mạng xã hội, podcast, video ngắn… giúp nội dung truyền thông KHCN và bình đẳng giới tiếp cận đa dạng công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Các chiến dịch truyền thông như “She Makes Science” (do Tổ chức Hợp tác và Phát triển châu Âu - OECD phối hợp thực hiện) là ví dụ điển hình về việc tích hợp báo chí, truyền thông xã hội và hình ảnh người thật - việc thật để xây dựng cảm hứng xã hội và thúc đẩy thay đổi hành vi (UNESCO, 2022).

Giải pháp tăng sự hiện diện của phụ nữ trong KHCN thông qua truyền thông

Để tối đa hóa hiệu quả, cần một hệ thống giải pháp đồng bộ, cả ở cấp chính sách, cơ sở báo chí lẫn các tổ chức khoa học.

Thứ nhất, phát triển chiến lược truyền thông dài hạn về phụ nữ và KHCN. Các cơ quan truyền thông cần được định hướng xây dựng chiến lược truyền thông dài hạn, có hệ thống nhằm thúc đẩy hình ảnh tích cực về phụ nữ trong khoa học. Thay vì các chiến dịch rời rạc theo sự kiện, cần tạo ra các tuyến bài định kỳ, chuỗi phóng sự chuyên sâu, chương trình truyền hình hoặc podcast tập trung vào câu chuyện của phụ nữ trong nghiên cứu, sáng chế, đổi mới sáng tạo. Các hình thức truyền thông này nên đa dạng về nội dung và ngôn ngữ thể hiện, hướng tới đối tượng công chúng trẻ để tạo ra hiệu ứng lan tỏa bền vững.

Thứ hai, tăng cường đào tạo phóng viên và biên tập viên về bình đẳng giới. Bộ Khoa học và Công nghệ có thể tổ chức các khóa tập huấn, biên soạn cẩm nang hướng dẫn báo chí viết về giới và KHCN. Điều này giúp tránh tình trạng thông tin rập khuôn, sáo rỗng hoặc củng cố định kiến giới trong quá trình truyền thông.

Thứ ba, khuyến khích các nhà khoa học nữ tham gia truyền thông. Một trong những rào cản lớn là sự “im lặng” của chính các nhà khoa học nữ trước truyền thông đại chúng. Do đó, cần khuyến khích và đào tạo phụ nữ làm khoa học về kỹ năng phát ngôn, trình bày kết quả nghiên cứu, viết bài phổ biến khoa học hoặc tham gia các diễn đàn truyền thông. Các tổ chức như Hội Nữ trí thức Việt Nam, các trường đại học, viện nghiên cứu cần phát huy vai trò trong kết nối nhà khoa học nữ với báo chí. Việc nâng cao năng lực truyền thông cho nhà khoa học nữ không chỉ giúp họ tự tin chia sẻ mà còn góp phần tạo ra hình mẫu mới về người phụ nữ tri thức trong xã hội hiện đại (UNESCO, 2024).

Thứ tư, xây dựng mạng lưới truyền thông - khoa học - tổ chức xã hội. Một giải pháp chiến lược là thiết lập mạng lưới hợp tác giữa các cơ quan báo chí, tổ chức khoa học và tổ chức phụ nữ nhằm xây dựng kênh truyền thông chuyên biệt về phụ nữ trong KHCN. Các mạng lưới này có thể cùng tổ chức giải báo chí, sự kiện truyền thông khoa học, diễn đàn công khai về giới và KHCN. Thực tế, sự phối hợp giữa Báo Phụ nữ Việt Nam và Hội LHPN trong các chiến dịch “Nữ trí thức vì tương lai” đã góp phần nâng cao vị thế và tiếng nói của phụ nữ trong xã hội.

Cuối cùng, cần lồng ghép các chỉ tiêu và hoạt động truyền thông về bình đẳng giới trong KHCN vào Chiến lược quốc gia phát triển KHCN. Việc quy định tỷ lệ tin bài, thời lượng phát sóng hoặc ngân sách truyền thông dành cho chủ đề phụ nữ và KHCN trong các chương trình mục tiêu quốc gia sẽ tạo ra sự bảo đảm thể chế để vấn đề này không bị xem nhẹ hoặc bị gián đoạn.

(Trích lược từ tham luận của TS. Vũ Tuấn Anh, Trưởng khoa Truyền thông và Văn hoá đối ngoại, Học viện Ngoại giao tại Hội thảo khoa học quốc gia "Phụ nữ với 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam")

Ý kiến bạn đọc

Tin cùng chuyên mục

Phát huy vai trò của báo chí trong công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ

Phát huy vai trò của báo chí trong công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ

(PNTĐ) - Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, báo chí luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác tuyên truyền, vận động và tổ chức các phong trào cách mạng. Đối với công tác phụ nữ, báo chí vừa là công cụ truyền tải thông tin, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng và những đóng góp quan trọng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực, vừa là kênh truyền thông hiệu quả để nâng cao nhận thức, khơi dậy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm và phát huy vai trò, vị thế của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hà Nội: “Không có vùng cấm đối với hàng giả, hàng nhái, hàng lậu”

Hà Nội: “Không có vùng cấm đối với hàng giả, hàng nhái, hàng lậu”

(PNTĐ) - Trong đợt cao điểm đấu tranh, đẩy lùi, ngăn ngừa tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, trên địa bàn thành phố Hà Nội, nhiều hộ kinh doanh đã đóng cửa, không buôn bán gì. Hàng hoá được nhập về cầm chừng, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ trà trộn với hàng có chứng từ hợp lệ để nguỵ trang, gây khó khăn cho lực lượng kiểm tra.