PGS.TS.NGND. AHLĐ thời kỳ đổi mới Nguyễn Thị Trâm:
Tin vào thế hệ các nữ khoa học trẻ
(PNTĐ) - PGS.TS.NGND. AHLĐ Nguyễn Thị Trâm, là nhà giáo, nhà chọn giống lúa lai nổi tiếng của Việt Nam. Bà đã giành nhiều giải thưởng danh giá, như: Giải thưởng Kovalepskaia năm 2000; Huân chương Lao động hạng Ba năm 2001; Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ (giải tập thể) năm 2005; Danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2009; Danh hiệu “Nhà khoa học của Nhà nông” tôn vinh lần 2 năm 2019; Cúp vàng Nông nghiệp Việt Nam cho giống lúa TH3-3 năm 2008…
Trước thềm buổi gặp mặt của Thủ tướng Chính phủ với nữ tướng, nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nữ anh hùng lao động, các nhà khoa học nữ do Hội LHPN Việt Nam phối hợp tổ chức trong dịp 8/3 này mà bà vinh dự được mời tham gia, bà đã có cuộc trò chuyện với phóng viên báo Phụ nữ Thủ đô.

Phóng viên: Xin chào PGS.TS.NGND. AHLĐ Nguyễn Thị Trâm. Bà có thể chia sẻ cơ duyên nào đưa bà đến với cây lúa?
PGS.TS Nguyễn Thị Trâm: Quê tôi ở vùng “chiêm trũng”, tỉnh Hà Nam, năm 1963, lần đầu tiên được ra Hà Nội học đại học Nông nghiệp với ước mơ mình có thể làm được việc gì đó trong ngành nông nghiệp giúp thay đổi phần nào cuộc sống cơ cực của người nông dân.
Sinh thời, Bác Hồ luôn quan tâm đến vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Người cho rằng, nông nghiệp phải là mặt trận hàng đầu, muốn phát triển đất nước phải coi trọng cả nông nghiệp và công nghiệp. Bác Hồ cũng căn dặn phải làm gì để nông dân ta no hơn, sung sướng hơn... Tiếp thu tư tưởng ấy của Bác, tôi luôn mong từ kiến thức được học có thể góp sức để giúp cho người nông dân nâng cao năng suất cây trồng, cải thiện đời sống.
Khi ra trường, tôi may mắn được đi theo, làm việc và học hỏi cả về trí tuệ, tâm huyết, sự tận tâm cống hiến cho khoa học của thầy Lương Định Của, người đã được đào tạo chuẩn mực về Di truyền – Chọn giống cây trồng và được nhận làm việc tại trường Đại học Nông nghiệp danh giá tại Nhất Bản với mức lương cao nhưng đã tự nguyện trở về phục vụ cho nông nghiệp nước nhà. Trong hoàn cảnh chiến tranh, nơi thầy trò chúng tôi làm việc chưa có phòng thí nghiệm, thầy nói với chúng tôi: “Chúng ta không nhất thiết phải đi từ phòng thí nghiệm ra đồng ruộng như thế giới đang làm vì nước ta đang có chiến tranh, chưa có phòng thí nghiệm nên phải bắt đầu ngay trên đồng ruộng. Các bạn phải học nông dân trồng lúa, ngô, khoai... trồng thế nào cho cây sống khỏe, năng suất cao bằng rồi cao hơn nông dân trồng, nghĩa là kỹ sư nông nghiệp phải thạo nghề nông. Không thạo nghề thì làm sao hướng dẫn được người khác hành nghề, không hiểu cách trồng cây thì làm sao tìm ra giống cây tốt...?”. Lời của thầy đã trở thành kim chỉ nam cho suốt quãng đời làm khoa học của tôi sau này. Tôi lăn lộn ngoài đồng ruộng, lai tạo, chọn lọc, thử nghiệm nhiều giống lúa mới rồi lại đưa vào phòng thí nghiệm nghiên cứu, tìm hiểu các ưu, nhược điểm của giống để bổ sung sửa chữa, chọn lọc.
Năm 1980, tôi được sang Liên Xô học về Di truyền và chọn giống cây trồng, năm 1984 làm xong luận án Phó tiến sỹ, tôi về nước giảng dạy tại đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Ngoài giờ lên lớp, tôi hướng dẫn sinh viên đại học, cao học, nghiên cứu sinh thực hiện các đề tài nghiên cứu chọn tạo giống lúa và cùng họ đưa các giống mới đến các vùng nông thôn trình diễn để mở rộng sản xuất.

Phóng viên: Bà có thể chia sẻ nhiều hơn về thành công đầu tiên khi lai tạo được lúa lai hai dòng TH3-3, sự kiện được đánh giá là tạo ra một chương mới cho ngành sản xuất lúa gạo ở Việt Nam?
PGS.TS Nguyễn Thị Trâm: Thời điểm đến tuổi nghỉ hưu (1999) miền Bắc nước ta vẫn còn thiếu gạo, thường phải chuyển từ miền Nam ra hoặc nhập khẩu. Thấy sức khỏe của mình còn rất tốt lại có tay nghề, có hiểu biết sâu về cây lúa, có các vật liệu đang nghiên cứu chưa xong, tôi mạnh dạn đề nghị với Hiệu trưởng Nhà trường cho phép được sử dụng 6.000m2 đất để triển khai các đề tài nghiên cứu lai tạo giống lúa mới. Tôi tự tổ chức một nhóm nghiên cứu, xây dựng nhiều đề tài thực nghiệm, sau nhiều lần lai tạo, chọn lọc, đánh giá công phu, nhóm chúng tôi đã tạo được một số dòng lúa bất dục đực gen nhân mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh của Việt Nam để tạo ra các tổ hợp lúa lai hai dòng. Năm 2002, giống lúa lai hai dòng đầu tiên: TH3-3 được gửi đi khảo nghiệm Quốc gia và 2005 được Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn công nhận chính thức. Năm 2004 Quốc Hội Việt Nam công bố “Pháp lệnh giống cây trồng”, nhờ đó chúng tôi đã tiến hành đăng ký bản quyền và 2007 được chấp nhận bản quyền đối với giống TH3-3. Giống lúa này vừa ngắn ngày, vừa có năng suất cao, chất lượng khá, chống chịu sâu bệnh khá và sản xuất hạt lai F1 thuận lợi. Chúng tôi đã đem trình diễn tại 26 tỉnh thành phía Bắc, được bà con nông dân chấp nhận đưa vào sản xuất nên nhu cầu hạt giống tăng cao sau mỗi vụ mà nhóm nghiên cứu không thể đáp ứng. Khi đó nhiều Công ty giống đã gợi ý muốn mua bản quyền. Năm 2008, Công ty TNHH Cường Tân ở Trực Ninh Nam Định đã đặt vấn đề mua bản quyền giống lúa lai TH3-3 với giá 10 tỷ đồng.
Chúng tôi đồng ý chuyển nhượng và đã đồng hành cùng Công ty tìm vùng sản xuất, chuyển giao kỹ thuật sản xuất hạt giống và tạo được những “Làng nghề” sản xuất hạt giống lúa lai F1 tại các huyện Trực Ninh, Xuân Trường, Hải Hậu. Việc này đã tạo ra một bước đột phá trong công tác chọn tạo giống lúa, khích lệ đối với các nhà chọn tạo giống cây trồng nói chung và giống lúa nói riêng ở Việt Nam. Đến nay, giống lúa lai TH3-3 đã được đưa vào trồng thành công tại nhiều địa bàn, từ miền núi phía Bắc đến đồng bằng, miền Trung và Tây Nguyên... Bà con nông dân cũng phấn khởi vì giá mua hạt giống rẻ, năng suất cao, ngắn ngày dễ sắp xếp vào cơ cấu mùa vụ, chống chịu sâu bệnh khá, ít phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, nên thu lợi nhuận tốt hơn so với trồng nhiều giống lúa khác.

Sau TH3-3, chúng tôi tiếp tục phóng thích các giống lai TH3-4, TH3-5, TH3-7, TH7-2, Lai thơm 6, CT16, MV2 và chuyển nhượng bản quyền cho các công ty Vinaseed, Mahyco, Vietseed để họ sản xuất hạt giống lai, tạo thế cạnh tranh bền vững với hạt lai F1 nhập ngoại. Song song với việc chọn tạo các giống lúa lai ngắn ngày, năng suất cao, thích ứng với điều kiện khí hậu của Việt Nam, chúng tôi vẫn nghiên cứu chọn tạo, cải tiến các giống lúa thuần chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh, phục vụ cho nhu cầu của người dân ngày càng cao. Hai giống lúa thuần chất lượng cao, thơm ngon: Hương cốm 1 và Hương cốm 4 đã được công nhận Quốc gia và đang lưu hành trong sản xuất, hướng tới trồng lúa thuận thiên, dùng phân bón hữu cơ, giảm phát thải khí nhà kính.
Phóng viên: Là đại biểu được mời tham dự buổi gặp mặt của Thủ tướng Chính phủ với nữ tướng, nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nữ anh hùng lao động, các nhà khoa học nữ trong dịp 8/3, bà muốn chia sẻ điều gì?
PGS.TS Nguyễn Thị Trâm: Buổi gặp gỡ giữa Thủ tướng Chính phủ với các nhà khoa học nữ là sự tôn vinh, ghi nhận của Nhà nước đối với những đóng góp của đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung, nữ trí thức nói riêng. Cuộc đời khoa học của tôi đã trải qua nhiều giai đoạn, từ thời chiến tranh khó khăn, gian khổ, tới khi hòa bình. Có những giai đoạn cơ sở vật chất, phương tiện nghiên cứu còn nghèo nàn, lạc hậu nên việc nghiên cứu mất nhiều công sức, thời gian hơn. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Nhà nước rất quan tâm thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học vào mọi lĩnh vực. Đặc biệt, vừa qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 193/2025/QH15 nêu rõ các tổ chức, cá nhân nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được miễn trách nhiệm dân sự khi gây thiệt hại trong quá trình sử dụng ngân sách nhà nước, với điều kiện đã thực hiện đầy đủ quy trình và quy định pháp luật. Tôi nghĩ chính sách mới này sẽ giúp các nhà khoa học yên tâm nghiên cứu khoa học, không ngại dấn thân để thực hiện các nghiên cứu khó và mới...
Với nhiều điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, các nhà khoa học nữ hôm nay lại có trí tuệ, bản lĩnh, sự sáng tạo, khả năng tiếp thu kiến thức mới nhanh và nhạy bén hơn chúng tôi, chắc chắn sẽ đưa khoa học nói chung và khoa học nông nghiệp Việt Nam tiến xa, hội nhập sâu với thế giới. Tôi luôn tin và xin được gửi ước mơ của mình vào thế hệ các nữ khoa học trẻ hôm nay.