Xây dựng môi trường an toàn cho phụ nữ và trẻ em gái trên không gian mạng
(PNTĐ) - Tại Việt Nam, chuyển đổi số tạo ra nhiều thuận lợi cho phụ nữ và trẻ em gái trong giao tiếp xã hội, tìm việc làm, tiếp cận giáo dục và dịch vụ công. Song, đi cùng với cơ hội là những rủi ro về năng lực kỹ thuật và an toàn trên không gian mạng, khi phụ nữ, trẻ em gái dễ trở thành đối tượng của tin giả, lừa đảo, bạo lực trực tuyến.
Thách thức trong công tác bảo vệ trẻ em trên mạng
Theo các chuyên gia, khi công nghệ ngày càng phát triển, tội phạm mạng cũng xuất hiện nhiều chiêu thức mới, với thủ đoạn tinh vi, khó lường. Nhiều hình thức dụ dỗ, đe dọa và bóc lột phụ nữ nhẹ dạ và trẻ em gái bằng clip nhạy cảm. Đã có những vụ bắt cóc, xâm hại trực tuyến xảy ra, gây nhức nhối trong xã hội.
Phát biểu tại Hội thảo Khoa học "Phụ nữ và trẻ em gái trong xã hội chuyển đổi số: Cơ hội và Thách thức" do Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức vừa qua, TS. Phùng Thanh Thảo - Đại học Kiểm sát cho biết, các hành vi xâm hại tình dục trực tuyến ngày càng đa dạng, từ dụ dỗ, đe dọa, phát tán, chia sẻ hình ảnh riêng tư cho tới tống tiền. Đặc biệt, kẻ xấu lợi dụng tính ẩn danh, mã hóa và lan truyền nhanh của mạng xã hội để che giấu tung tích, khiến quá trình điều tra và xử lý vụ việc gặp rất nhiều khó khăn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, khoảng 1% trẻ em sử dụng Internet (tương đương 94.000 em mỗi năm) từng là nạn nhân bóc lột và lạm dụng tình dục trực tuyến; 23% từng phơi nhiễm nội dung tình dục và 5% nhận được hình ảnh nhạy cảm không mong muốn. Nhóm đối tượng này có nguy cơ cao phải đối mặt với bạo lực mạng, bắt nạt, quấy rối tình dục trực tuyến, phát tán hình ảnh nhạy cảm không có sự đồng thuận và đe dọa an toàn cá nhân. Chính các đặc tính của nền tảng số như tính ẩn danh, tốc độ lan truyền nhanh và khả năng lưu trữ, chia sẻ nội dung không giới hạn đã làm gia tăng đáng kể các rủi ro bị bóc lột và lạm dụng tình dục trực tuyến đối với trẻ em. Bên cạnh đó là sự ảnh hưởng của một số yếu tố kinh tế - xã hội, khoảng trống pháp luật, sự hạn chế trong nhận thức và kỹ năng số của trẻ em và gia đình. Việc bị bóc lột và lạm dụng tình dục trực tuyến để lại hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe tâm thần cho trẻ em, bao gồm lo âu, trầm cảm, tự hại, thậm chí tự tử. Do đó, việc bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cần được nhìn nhận là một yêu cầu cấp thiết và đòi hỏi các giải pháp đồng bộ.

TS. Thảo dẫn chứng: Có trường hợp bé gái 15 tuổi bị tống tiền bằng clip riêng tư đã phải thực hiện hành vi trộm cắp để có tiền trả nhưng số tiền thiệt hại dồn dập khiến cả gia đình mất hơn 300 triệu đồng trước khi sự việc được trình báo. Bên cạnh tổn thương tinh thần, nhiều vụ việc còn để lại hậu quả thể chất, thậm chí đe dọa tính mạng. Nạn nhân có thể bị giết để xóa dấu vết, gây ra những mất mát không thể bù đắp cho gia đình và xã hội.
Một điểm đáng chú ý là các nền tảng mạng xã hội phổ biến như Facebook và Zalo được xác định là "điểm nóng" của các hành vi phát tán hình ảnh nhạy cảm, vu khống, quấy rối tình dục. Đối tượng phạm tội còn giả danh, sử dụng hình ảnh thiếu niên để tiếp cận, dụ dỗ và khai thác các em gái vị thành niên. Khó khăn càng lớn hơn khi tội phạm ẩn mình sau những lớp bảo mật, mã hóa và máy chủ phân tán ở nhiều nơi. "Có trường hợp xác định máy chủ ở miền Bắc nhưng chỉ sau ít phút lại xuất hiện ở miền Nam. Tính chất phân tán này khiến việc điều tra vô cùng khó khăn", TS. Thảo nhấn mạnh.
Trong khi đó, một nguyên nhân quan trọng khác đến từ sự thiếu nhận thức và hạn chế hiểu biết pháp luật. Nhiều nạn nhân không biết hành vi phát tán hình ảnh riêng tư là vi phạm, cũng không rõ phải trình báo ở đâu. Không ít gia đình khi bị tống tiền vài chục triệu đồng lại chấp nhận trả để "êm chuyện", vô tình dung dưỡng cho tội phạm. Không dừng ở tổn thương cá nhân, vấn nạn này còn gây tác động tiêu cực tới an sinh xã hội, tạo ra tâm lý bất an, mất niềm tin vào không gian mạng - nơi lẽ ra phải an toàn để học tập, làm việc và kết nối.
Ngay cả nhóm sinh viên - vốn là những người trẻ, thành thạo công nghệ - cũng không tránh khỏi rủi ro. Khảo sát của ThS. Nguyễn Thị Huệ - Viện Nghiên cứu Con người, Gia đình và Giới, với 462 nữ sinh viên ở Hà Nội chỉ ra: 51% từng gặp lừa đảo trực tuyến, gần một nửa khó phân biệt tin thật - giả, hơn 16% từng bị quấy rối và 11% là nạn nhân bắt nạt trên mạng. Kết quả khảo sát cho thấy, rủi ro trên môi trường số không loại trừ bất kỳ ai, kể cả những người trẻ thành thạo công nghệ.
Xây dựng hành lang bảo vệ phụ nữ, trẻ em gái
Theo TS Phùng Thanh Thảo, chuyển đổi số mang lại nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra thách thức lớn đối với công tác bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em ở Việt Nam. Theo đó, hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta chưa có quy định cụ thể về xâm hại tình dục trẻ em và phụ nữ trên không gian mạng. Các hành vi thường chỉ được xử lý dưới tội danh “xâm hại tình dục” hoặc “quấy rối”, trong khi hình thức phạm tội trực tuyến có đặc thù riêng: ẩn danh, mã hóa, phát tán nhanh, khó thu thập chứng cứ. “Nhiều trường hợp, dù nạn nhân đã cung cấp hình ảnh nhưng khi cơ quan chức năng kiểm tra thì dữ liệu ở máy đối tượng đã bị xóa, khiến quá trình chứng minh rất phức tạp”, TS. Thảo phân tích.

Từ thực tiễn nghiên cứu và điều tra, TS Thảo đề xuất cần rà soát, bổ sung các quy định pháp luật để định danh rõ ràng hơn các hành vi xâm hại tình dục trực tuyến, bao gồm quấy rối tình dục qua mạng, phát tán hình ảnh nhạy cảm không đồng thuận, tống tiền và dụ dỗ tình dục trực tuyến; khuyến nghị xây dựng các văn bản hướng dẫn thực thi chi tiết, đặc biệt cho lực lượng điều tra và công tố viên, nhằm đảm bảo tính thống nhất khi áp dụng pháp luật.
Bên cạnh đó, cần tăng cường đào tạo chuyên sâu cho các lực lượng chức năng như công an, kiểm sát viên và thẩm phán về điều tra, xử lý tội phạm mạng liên quan đến xâm hại tình dục; nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trang bị công cụ kỹ thuật hiện đại để thu thập, bảo quản và phân tích chứng cứ điện tử. Đồng thời, cần đẩy mạnh cơ chế hợp tác giữa cơ quan chức năng và các nền tảng mạng xã hội, đặc biệt là nền tảng quốc tế, nhằm rút ngắn thời gian xử lý và gỡ bỏ nội dung vi phạm.
Việc nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua các chương trình giáo dục pháp luật và kỹ năng số cho học sinh, phụ huynh và giáo viên. Doanh nghiệp công nghệ cần áp dụng các công cụ giám sát nội dung, xác thực danh tính người dùng, và sử dụng trí tuệ nhân tạo để phát hiện, ngăn chặn nội dung xâm hại tình dục trực tuyến…
Còn ThS. Nguyễn Thị Huệ khẳng định, để tăng cường sự an toàn và phát huy sự chủ động của nữ sinh viên trước những vấn đề dễ tổn thương trên không gian mạng, nhà trường cần đưa nội dung về nhận diện tin giả, phòng chống lừa đảo, quản lý danh tính, ứng phó với bạo lực mạng thành một nội dung giảng dạy độc lập. Bên cạnh đó, nhà trường nên thành lập và hỗ trợ các câu lạc bộ, đội nhóm về an toàn số, nơi sinh viên có kinh nghiệm hướng dẫn và chia sẻ với các sinh viên khác. Ở góc độ pháp lý, cần quy định mạnh mẽ hơn để xử lý các hành vi quấy rối, bắt nạt, lừa đảo trên mạng; đảm bảo quy trình báo cáo, xử lý hiệu quả, thân thiện với nạn nhân. Các nhà cung cấp mạng xã hội và dịch vụ trực tuyến cần có biện pháp mạnh mẽ hơn để lọc tin nhắn rác, nội dung độc hại và đơn giản hoá quy trình báo cáo vi phạm.
“Đặc biệt, chính các nữ sinh cần chủ động cập nhật các hình thức lừa đảo mới, cách sử dụng mạng xã hội an toàn; xây dựng thói quen tốt; cân bằng giữa học tập và giải trí… Khi gặp sự cố, các em cần chia sẻ với người thân, bạn bè, thầy cô để có cách giải quyết” – Ths Huệ nói.










