Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Để không còn những người mẹ dân tộc thiểu số tử vong khi sinh con
(PNTĐ) -Hiện nay trên thế giới, cứ 2 phút thì có một phụ nữ tử vong khi sinh con và hầu hết những ca tử vong này đều có thể ngăn chặn được. Đó là lý do trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 của Việt Nam đã đặt mục tiêu phổ cập dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn; tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh tật trước sinh và sơ sinh với sự tham gia của toàn xã hội tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;
Theo Trưởng Đại diện Quỹ Dân số LHQ tại Việt Nam bà Naomi Kitahara, hiện nay trên thế giới, cứ 2 phút thì có một phụ nữ tử vong khi sinh con và hầu hết những ca tử vong này đều có thể ngăn chặn được. Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số năm 2019, tỷ lệ tử vong mẹ trên toàn quốc đã giảm xuống 46 ca trên 100.000 ca sinh sống. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn cao gấp 2 – 3 lần ở khu vực dân tộc ít người, đặc biệc là khu vực trung du và miền núi phía bắc, và khu vực Tây Nguyên.
Trong nhiều thập kỷ qua, các hệ thống chăm sóc sức khỏe trên thế giới đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc tăng cường khả năng tiếp cận và chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục. Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực nâng cao sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục cho toàn dân, tuy nhiên vẫn còn có sự chênh lệch giữa các nhóm dân cư khác nhau.

Một phụ nữ Ba Na, cô Hnhach, một trong 2 cô đỡ thôn bản của xã De Ar chia sẻ: “Làm cô đỡ thôn bản vất vả lắm, nhưng em luôn sẵn sàng đi đỡ đẻ. Em cảm thấy mình đã giúp được bà con. Trong năm 2022, em đã đỡ được 24 ca đẻ tại nhà. Ở đây, phần lớn người dân tộc Ba Na không muốn sinh ở bệnh viện. Họ cảm thấy xấu hổ khi sinh trước người lạ. Phong tục của người Ba Na là người phụ nữ sinh con tại nhà và ở một cái chòi bên ngoài. Hơn nữa, đi bệnh viện xa lắm, họ không có tiền mua xăng để đi lại và trang trải cho các dịch vụ chăm sóc. Đó cũng là những khó khăn cản trở người phụ nữ đi khám thai và đến bệnh viện để sinh con.”
Hnhack khẳng định rằng để thay đổi được những thói quen, tập quán sinh đẻ tại nhà của đồng bào dân tộc ít người, hoạt động truyền thông cần phải được thiết kế để thay đổi hành vi không chỉ những người phụ nữ đang mang thai mà còn cả chồng họ, mẹ chồng của họ, chính quyền thôn, xã và những người có ảnh hưởng trong thôn như già làng.
Điều này cũng được Trưởng Trạm y tế xã De Ar, cô Lê Thị Nguyệt đồng tình. Xã De Ar có 4.800 dân, có 7 thôn nhưng chỉ có 2 cô đỡ thôn bản và 5 nhân viên y tế. Cô Lê Thị Nguyệt cho biết: “Tại xã De Ar, có hơn 100 ca sinh con trong năm 2022 và gần 90% ca là sinh tại nhà. Chỉ một nửa trong số họ đi khám thai. Chúng tôi thực sự cần được đào tạo thêm cô đỡ thôn bản và nhận thêm dụng cụ và trang thiết bị y tế cũng như tài liệu truyền thông để hỗ trợ công việc của chúng tôi.”
Ông Lê Đức Thọ, Phó Trưởng Khoa sản, bệnh viện đa khoa Gia Lai cho biết phần lớn phụ nữ dân tộc đến bệnh viện đẻ khi có biến chứng. Ông cho biết: “Tỷ lệ phụ nữ dân tộc ít người đi khám thai rất thấp. Họ chỉ đến bệnh viện khi họ có vấn đề. Tương tự tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai của đồng bào dân tộc ít người cũng rất thấp, vì thế họ có rất nhiều con.”
Chỉ còn 7 năm nữa là đến năm 2030, khi các quốc gia trên thế giới cam kết sẽ đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững. Các tiến bộ về sức khỏe bà mẹ trên thế giới hiện đang bị chững lại, đặc biệt sau 3 năm đại dịch Covid-19. Cũng có nghĩa sẽ có nhiều việc phải làm để thúc đẩy tiến trình này nhằm hướng tới không có ca tử vong mẹ khi có thể phòng ngừa được, không có nhu cầu về kế hoạch hóa gia đình nào không được đáp ứng.