Văn kiện Đại hội XIV của Đảng - ngọn đuốc soi đường trong kỷ nguyên mới
Kỳ 3: Xác lập mô hình tăng trưởng mới
(PNTĐ) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng đã đề ra mục tiêu "phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân cho giai đoạn 2026-2030 từ 10%/năm trở lên". Đồng thời cũng chỉ rõ: "Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính".

Thể chế - “Chìa khóa” thực hiện khát vọng phát triển
Việt Nam hiện nằm trong nhóm 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới; so với năm 1986, quy mô GDP cả nước đã tăng gần 100 lần, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 5.000 USD, trong 10 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 762,44 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước; xuất khẩu tăng 16,2%, nhập khẩu tăng 18,6%; vốn FDI thực hiện đạt 21,3 tỷ USD - mức cao nhất 5 năm.
TS Trần Văn-Đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách cho rằng, dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng nhận định, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế là mũi nhọn chiến lược, nền tảng để phát triển năng suất, nâng cao tốc độ và góp phần bảo đảm, chất lượng tăng trưởng.
Bản chất thể chế kinh tế ở Việt Nam được định hướng xây dựng theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó thể chế chính trị đóng vai trò trung tâm, thể chế kinh tế giữ vai trò trọng tâm.
Trong 40 năm đổi mới, hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam đã được xây dựng khá toàn diện với gần 270 bộ luật, luật và các văn bản liên quan. Các bộ luật dân sự, doanh nghiệp, đầu tư, thuế, đất đai, lao động… tạo thành khung pháp lý vững chắc cho hoạt động kinh tế đa dạng. Tuy nhiên, song hành với sự phát triển mở rộng này, vẫn còn những "lỗ hổng" thể chế cần giải quyết nhằm tránh xuất hiện những "điểm nghẽn" làm giảm tốc độ phát triển và kìm hãm đổi mới sáng tạo trong kinh tế.
Việc dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV đã đặt trọng tâm vào hoàn thiện thể chế để giải quyết căn cơ những “điểm nghẽn” về thể chế, xây dựng nền kinh tế số, kinh tế xanh, và đồng thời bảo đảm tính công bằng, minh bạch, và hiệu quả trong thị trường là hết sức đúng đắn, đáp ứng sự mong mỏi của người dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Ông Đỗ Minh Quang, nguyên quyền Chánh văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh cho biết, dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XIV đã nêu rõ tinh thần “tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, điều cần thiết là phải làm rõ nội hàm và mức độ triển khai cụ thể của “tự chủ chiến lược” ở các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Ông Đỗ Minh Quang cho rằng, thể chế là “chìa khóa” để thực hiện khát vọng phát triển. Vì vậy đề xuất Đại hội XIV của Đảng cần nhấn mạnh hơn nữa tinh thần “đột phá thể chế," nhất là việc đơn giản hóa thủ tục, phân quyền thực chất cho địa phương, để nguồn lực trong dân, trong doanh nghiệp được khai thông.
Lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số làm trụ cột
Việt Nam là quốc gia đi sau nhưng đang nắm bắt cơ hội để gia nhập hàng ngũ các nền kinh tế số phát triển. Bộ Chính trị khoá XIII đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về "Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia", nhấn mạnh khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực không có trần giới hạn cho tăng trưởng. Do đó, đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là chủ trương mới, quan trọng trong Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng, nhằm tận dụng tối đa những động lực phát triển không có trần giới hạn.
Việc xác định ưu tiên này xuất phát từ tầm nhìn chiến lược đáp ứng yêu cầu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi công nghệ số và đổi mới sáng tạo trở thành yếu tố quyết định tốc độ và chất lượng phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Đảng khẳng định, chỉ có đột phá mạnh mẽ trong những lĩnh vực này mới giúp Việt Nam bứt phá khỏi giới hạn tăng trưởng truyền thống.
Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV xác định, tăng trưởng dựa trên đổi mới, tri thức và công nghệ sẽ tạo ra nguồn lực sản xuất vô tận khi nhanh chóng lan toả trong nền kinh tế. Trong khi đó, khái niệm xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức nhấn mạnh yếu tố dữ liệu, thông tin và năng lực phân tích số để nâng cao năng suất và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Mô hình nền kinh tế số kết hợp giữa hạ tầng số, nền tảng dữ liệu và hệ sinh thái khởi nghiệp tạo sự phát triển mạnh mẽ cho quá trình đổi mới sáng tạo.
Hiện nay, Chính phủ, các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở đã và đang triển khai quyết liệt Đề án Chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và đầu tư xây dựng hạ tầng công nghệ, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam thành quốc gia số vào năm 2030. Tập trung đổi mới cơ chế đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, ưu tiên nguồn lực cho các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, như: Trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Internet vạn vật và công nghệ sinh học.
Theo PGS.TS Bùi Thị An - nguyên đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hội Nữ trí thức TP Hà Nội, một trong những điểm cần tiếp tục nhấn mạnh trong Văn kiện là vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, cùng với đó là chuyển đổi số hướng tới phát triển bền vững. “Đây chính là nguồn lực của quốc gia, là nền tảng để Việt Nam đi tới tự lực, tự cường”- bà An nói và cho rằng không thể phát triển nếu phụ thuộc vào công nghệ, tri thức từ bên ngoài.
Bà An đề nghị bổ sung rõ hơn các cơ chế cụ thể để thu hút và giữ chân người tài, nhất là trong lĩnh vực khoa học - công nghệ. Bởi “nếu chỉ dừng ở mức nêu nguyên tắc thì khó thực hiện. Cần có cơ chế cụ thể để thu hút nhân tài, tạo môi trường làm việc tốt, đánh giá công bằng và đãi ngộ tương xứng”- bà An phân tích.
Một điểm đáng chú ý trong góp ý của PGS.TS Bùi Thị An là vai trò của nữ trí thức và trí thức trẻ trong phát triển khoa học - công nghệ. Bà đề nghị cần có chỉ tiêu cụ thể hoặc cam kết chính trị rõ ràng để họ được tham gia vào các cơ quan hoạch định chính sách, Hội đồng đổi mới sáng tạo quốc gia.
Góp ý vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV, TS Nguyễn Viết Hương- Phó Trưởng khoa Khoa học và Kỹ thuật Vật liệu, Đại học Phenikaa, Giải thưởng Khoa học công nghệ Quả Cầu Vàng, Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu 2024 đề xuất một số chủ trương và giải pháp nhằm tạo bước phát triển đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia từ góc nhìn của một nhà khoa học trẻ đang trực tiếp tham gia đào tạo thế hệ kế cận.
Để tạo nên bước phát triển đột phá trong khoa học, công nghệ, theo TS Nguyễn Viết Hương cần triển khai chiến lược nhân lực theo cấu trúc nhiều tầng, bảo đảm kế thừa, bổ sung, tương hỗ; gắn kết chặt chẽ giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, hệ thống nghiên cứu và khu vực doanh nghiệp. Trong đó khả năng dẫn dắt của Nhóm tinh hoa, chiến lược tầm quốc gia đóng vai trò rất quan trọng.
Với tầng chuyên gia đầu ngành, đẳng cấp quốc tế, cần chủ động mời gọi các tổng công trình sư, nhà khoa học hàng đầu thế giới thông qua các chương trình đặc biệt với nhiệm vụ trọng tâm là tư vấn lộ trình phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, con người và lợi thế địa chính trị, lợi thế của đất nước ta. Với tầng trí thức Việt Nam ở nước ngoài cần hình thành mạng lưới "Nhà khoa học Việt Nam toàn cầu", áp dụng cơ chế "hồi hương bán phần". Đồng thời cần chế độ đãi ngộ theo kết quả, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ và công bố chung, qua đó đưa tri thức quốc tế về Việt Nam bằng con đường nhanh nhất, chi phí hiệu quả nhất.
Với tầng đào tạo trong nước, cần dựng các trung tâm đào tạo tiến sĩ - hậu tiến sĩ gắn với phòng thí nghiệm hiện đại, ưu tiên các lĩnh vực mũi nhọn. Với tầng học sinh, sinh viên, cần khơi dậy đam mê khoa học từ phổ thông; phát triển các câu lạc bộ STEM, cuộc thi nghiên cứu khoa học học sinh, kỳ thực tập phòng thí nghiệm mở…
Việt Nam có thể gia tăng chỉ số GDP thêm 1 - 1,5 điểm phần trăm mỗi năm nhờ áp dụng hiệu quả khoa học công nghệ và chuyển đổi số. Những sản phẩm, dịch vụ mới định hình từ công nghệ cao và giải pháp số không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn tạo sức hút trên thị trường toàn cầu. Việc tham gia sâu vào chuỗi sản xuất quốc tế giúp doanh nghiệp Việt Nam học hỏi công nghệ, nâng cao tiêu chuẩn quản trị và mở rộng mạng lưới đối tác. Từ đó, vị thế của Việt Nam được nâng cao, trở thành mắt xích quan trọng trong mạng lưới sản xuất và giá trị toàn cầu.
(Còn tiếp)












