Đại dịch Covid-19 và bất bình đẳng giới trong thị trường lao động
Tác động của Covid-19 đến thị trường lao động của Việt Nam không chỉ làm trầm trọng thêm những bất bình đẳng hiện có mà còn tạo ra những bất bình đẳng mới. Một khoảng cách nhất định giữa hai giới đã lộ rõ...
“Gánh nặng kép” của phụ nữ càng nặng nề hơn trong đại dịch
Theo thống kê, tỷ lệ tham gia thị trường lao động của phụ nữ Việt Nam ở mức cao đáng kể. Tuy nhiên, phụ nữ Việt Nam phải mang “gánh nặng kép” một cách không tương xứng và họ phải đối mặt với nhiều bất bình đẳng có tính chất dai dẳng.
Báo cáo Giới và thị trường lao động ở Việt Nam do tổ chức lao động quốc tế (ILO) thực hiện công bố vào tháng 3/2021 cho thấy, mặc dù rất tích cực tham gia hoạt động kinh tế, nhưng phụ nữ đồng thời cũng phải gánh vác trách nhiệm gia đình một cách không tương xứng. Họ dành nhiều giờ gấp đôi nam giới để phục vụ cho gia đình mình, chẳng hạn như dọn dẹp, nấu nướng, hoặc chăm sóc các thành viên trong gia đình và con cái. Hầu như mọi phụ nữ đều tham gia vào các hoạt động này hàng tuần. Tỷ trọng nam giới tham gia vào từng hoạt động này thấp hơn và có tới gần 20% cho biết họ không hề dành quỹ thời gian nào cho các hoạt động này. Có tới hơn 70% phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động, trong khi tỷ lệ này ở cấp độ toàn cầu là 47,2% và tỷ lệ trung bình của khu vực châu Á-Thái Bình Dương là 43,9%.
Ảnh minh họa
Thực tế cho thấy, đại dịch Covid-19 đã tạo ra những bất bình đẳng mới trong thị trường lao động. Theo báo cáo của ILO, phụ nữ phải đối mặt với tình trạng giảm số giờ làm đặc biệt nghiêm trọng trong quý II năm 2020. Họ rời thị trường lao động với tỷ trọng lớn hơn so với nam giới. Phụ nữ trẻ và lớn tuổi, thường là những người phải làm những công việc thiếu ổn định nhất, là những đối tượng đặc biệt có nguy cơ ra khỏi lực lượng lao động. Chênh lệch giới cũng xuất hiện trong tỷ lệ thất nghiệp.
Theo nghiên cứu, trong quý III và quý IV năm 2020, những phụ nữ vẫn có việc làm thường phải làm việc nhiều giờ hơn so với mức bình thường. Lựa chọn này của họ có thể xuất phát từ nhu cầu phải bù đắp các thu nhập bị mất trong quý II. Ngoài việc tham gia các hoạt động kinh tế gia tăng, phụ nữ cũng dành gần 30 giờ mỗi tuần cho việc nhà. Những yếu tố này cho thấy đại dịch có thể đã khiến cho “gánh nặng kép” của phụ nữ càng nặng nề hơn so với trước khi khủng hoảng y tế xảy ra.
Bà Valentina Barcucci (chuyên gia Kinh tế Lao động của ILO Việt Nam) cho biết: Trước đại dịch Covid-19, cả phụ nữ và nam giới đều tiếp cận việc làm khá dễ dàng, nhưng nhìn chung, chất lượng việc làm của phụ nữ thấp hơn của nam giới. Lao động nữ chiếm đa số trong những việc làm dễ bị tổn thương, đặc biệt là công việc gia đình. Thu nhập của họ thấp hơn của nam giới (tiền lương tháng thấp hơn 13,7% trong năm 2019) bất luận thời giờ làm việc là tương đương với nam giới và chênh lệch giới về trình độ học vấn đã được thu hẹp đáng kể.
Theo bà Valentina Barcucci, tỷ lệ phụ nữ đảm nhận các vị trí ra quyết định còn quá thấp. Phụ nữ chiếm gần một nửa lực lượng lao động nhưng chỉ đảm nhận chưa đến một phần tư vị trí lãnh đạo, quản lý chung.
Cần thay đổi tư duy, hành vi của nam giới và phụ nữ trên thị trường lao động
Căn nguyên của bất bình đẳng trên thị trường lao động là những vai trò truyền thống mà phụ nữ được kỳ vọng phải đảm nhận, được củng cố bằng các chuẩn mực xã hội lẫn luật pháp của quốc gia. Việc phụ nữ phải mang gánh nặng kép không chỉ là hiện tượng giờ mới được biết đến ở Việt Nam mà còn được truyền thống khích lệ. Phụ nữ luôn được nhắc nhở phải “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Việc đáp ứng ở cấp độ chính sách và xã hội chính là sự thừa nhận vai trò truyền thống đó như một thực tế, cũng như xu hướng “bảo vệ” phụ nữ trong những vai trò đó.
Từ thực tế ấy mới dẫn tới việc quy định tuổi nghỉ hưu bắt buộc đối với phụ nữ thấp hơn nam giới, hoặc việc loại trừ lao động nữ ra khỏi một số công việc nhất định. Những cách tiếp cận này càng củng cố vai trò giới truyền thống vốn là gốc rễ của sự bất bình đẳng đã được mô tả trong báo cáo này.
Tiến sỹ Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO Việt Nam cho rằng, mặc dù ở cấp độ chính sách, Bộ luật Lao động 2019 đã mở ra những cơ hội để thu hẹp khoảng cách giới, chẳng hạn như thu hẹp khoảng cách trong độ tuổi nghỉ hưu hay xóa bỏ việc hạn chế phụ nữ tham gia một số ngành nghề nhất định. Việt Nam vẫn còn một nhiệm vụ khó khăn hơn nữa cần phải hoàn thành, đó là việc thay đổi tư duy của nam giới và của chính phụ nữ Việt Nam, để từ đó thay đổi hành vi của họ trên thị trường lao động.
Đại dịch Covid-19 làm mất 81 triệu việc làm, gây xáo trộn thị trường lao động. Ảnh: Tiêu Phong
Làm thế nào để có thể thu hẹp khoảng cách giới, xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng giới trong thị trường lao động tại Việt Nam là vấn đề được đặt ra lâu nay. Tuy nhiên, trong đại dịch, vấn đề này lại càng trở nên cấp thiết hơn. Trong nghiên cứu về vấn đề này, ILO đưa ra khuyến nghị về giải pháp. Đó là bình đẳng trong thế giới việc làm của Việt Nam chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở chuyển dịch cách tiếp cận, từ chỗ bảo vệ phụ nữ sang tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả người lao động, không phân biệt giới tính. Ở cấp độ chính sách, Bộ luật Lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/2021 mở ra cơ hội thu hẹp khoảng cách giới trong việc làm. Chẳng hạn, Bộ luật quy định việc thu hẹp khoảng cách độ tuổi nghỉ hưu, sẽ được thực hiện từng bước. Ngoài ra, theo Bộ luật mới, lao động nữ sẽ không còn bị luật pháp loại trừ khỏi một số ngành nghề được coi là có hại cho chức năng chăm sóc và nuôi dạy con cái. Thay vào đó, họ sẽ có quyền lựa chọn có tham gia vào những ngành nghề đó hay không, sau khi được tham mưu đầy đủ về những rủi ro liên quan.
Những dấu hiệu tiến bộ này cho thấy sự sẵn sàng nâng cao cơ hội bình đẳng trong thế giới việc làm. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động vẫn cấu trúc các điều khoản hướng tới bình đẳng giới dưới dạng gắn với “lao động nữ”. Vai trò giới truyền thống vẫn còn khắc sâu trong tâm trí của các cá thể và ảnh hưởng đến hành vi kinh tế của họ, như đã được mô tả trong báo cáo này. Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021-2030 được kỳ vọng sẽ thu hẹp chênh lệch giới trên một số lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của người dân. Để đạt được mục tiêu này, một quá trình thực chất cần được xúc tiến nhằm xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng giới vốn tồn tại từ lâu trong truyền thống của Việt Nam.
Theo Báo cáo nghiên cứu “Giới và Thị trường Lao động ở Việt Nam: Phân tích dựa trên số liệu Điều tra Lao động - Việc làm” của ILO: Có sự chênh lệch giới trong tỷ lệ tham gia lao động ở Việt Nam dù hẹp hơn so với mức trung bình của khu vực và toàn cầu. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động thấp hơn nam giới và lý do đằng sau sự chênh lệch này có thể là do sự phân bổ trách nhiệm gia đình không đồng đều trong xã hội Việt Nam. Điều tra Lao động - Việc làm năm 2018 cho thấy 47,5% phụ nữ lựa chọn không hoạt động kinh tế là vì “lý do cá nhân hoặc liên quan đến gia đình”. Trong khi đó, chỉ có 18,9% nam giới không tham gia hoạt động kinh tế viện dẫn lý do này. Mặc dù có tỷ lệ tham gia thị trường lao động nói chung cao nhưng phụ nữ Việt Nam vẫn phải đối mặt với sự bất bình đẳng về cơ hội tham gia vào hoạt động kinh tế so với nam giới.
HẠ THI