Dáng đứng Việt Nam
(PNTĐ) - Trong số những áng thơ hay thời kỳ chống Mỹ cứu nước không thể không kể đến một tuyệt bút“Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ - Anh hùng liệt sĩ Lê Anh Xuân.
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
3/1968
Lê Anh Xuân

Lời bình:
Thi phẩm tái hiện rất xúc động, ngợi ca tinh thần chiến đấu dũng cảm, ý chí kiên cường bất khuất và hy sinh cao đẹp trong tư thế tiến công địch của anh giải phóng quân, biểu tượng sáng ngời cho chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Bài thơ được khơi gợi cảm hứng từ thực tế cuộc chiến đấu quyết liệt trong trận tiến công sân bay Tân Sơn Nhất. Đại đội 1 theo đường tuần tra bên phải tiến đánh, chiếm được 2 nhà để máy bay, nhưng sáng 31/1/1968, địch củng cố lực lượng và bắt đầu phản kích. Chiến sĩ quân giải phóng bám sát từng xác xe tăng địch để chiến đấu, diệt 150 tên địch, bắn cháy 5 xe tăng. Nhưng rồi quân ta hết đạn. Đồng chí Nguyễn Văn Mẹo đã hy sinh trong tư thế tựa người vào xác chiếc xe tăng M.41, tay anh vẫn kẹp chặt khẩu súng AK chĩa về phía quân địch khiến chúng hoảng hốt giơ tay xin hàng. Hình tượng quả cảm và kỳ vĩ đó đã khơi nguồn nguồn cảm hứng để nhà thơ Lê Anh Xuân sáng tác. Thi phẩm viết theo thể thơ tự do, mở đầu là những dòng nóng hổi về cuộc chiến và sự ra đi của người chiến sĩ: “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt/ Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và Anh chết trong khi đang đứng bắn/ Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.” Hình ảnh diễn tả sự hy sinh của người chiến sĩ được nhà thơ khắc họa hết sức sinh động.
Lời thơ mang âm hưởng của anh hùng ca, tràn đầy cảm hứng lãng mạn, vượt lên trên sự chết chóc. Những câu thơ đa dạng như dòng cảm xúc trào dâng. Đại từ Anh viết hoa và điệp nhiều lần trong bài tỏ rõ thái độ yêu quý, cảm phục và ngợi ca. Tư thế hy sinh, tinh thần yêu nước, niềm lạc quan và lòng tự hào dân tộc ở Anh đã làm cho kẻ thù phải khiếp sợ, đó là tư thế đạp lên đầu thù mà xốc tới.
Trong khi đó, hình ảnh kẻ thù được nhà thơ phản ánh hoàn toàn tương phản: “Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng/ Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn”. Điều ấy càng làm rạng ngời hình tượng người chiến sĩ, ngay cả khi ngã xuống và hy sinh vẫn khiến quân thù bạt vía phải xin hàng, quỳ sụp dưới chân anh, khuất phục trước lòng dũng cảm tuyệt vời ở người chiến sĩ.
Tác giả trực tiếp bày tỏ thái độ yêu mến, tự hào về người chiến sĩ: “Anh tên gì hỡi Anh yêu quý/ Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng/ Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ/ Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong”. Những câu thơ dạng nghi vấn, hỏi mà không cần trả lời, bày tỏ niềm cảm phục trước tinh thần quyết chiến quyết thắng ở anh giải phóng quân. Nhà thơ phản ánh tinh thần chiến đấu, hy sinh không màng danh lợi ở người lính: “Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại cái dáng - đứng - Việt - Nam tạc vào thế kỷ:/ Anh là chiến sỹ Giải phóng quân”. Chỉ một đoạn thơ hàm súc, tác giả đã làm ngời thêm tinh thần chiến đấu vô tư, trong sáng, cao cả: Vì khát vọng độc lập dân tộc, giải phóng quê hương, thống nhất đất nước.
Khép lại toàn bài, nhà thơ nói rõ ý nghĩa của sự hy sinh ở người chiến sĩ với niềm xúc động thiêng liêng, thành kính: “Tên Anh đã thành tên đất nước/ Ôi anh Giải phóng quân!/ Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Chính tinh thần chiến đấu Tất cả vì miền Nam ruột thịt; Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược đã trở thành khẩu hiệu hành động mỗi người Việt Nam thời ấy. Cuộc sống hoà bình ấm no, chúng ta càng trân trọng biết ơn những người đã cống hiến, hy sinh vì nhân dân, vì đất nước và sống sao cho xứng đáng với cha anh.