MẸ NGỒI TÊM NẮNG

NGUYỄN THỊ THIỆN
Chia sẻ

(PNTĐ) -Trong số nhiều bài thơ hay về mẹ, tôi thích bài "Mẹ ngồi têm nắng" của Trần Đức Đủ, nhà thơ của xứ Kinh Bắc nổi tiếng.

Mẹ ngồi têm nắng bên thềm
Giọt thời gian rụng ướt mềm ca dao
Lòng mẹ sóng vỗ lao xao
Con thuyền ký ức níu vào bến mơ

Mẹ ngồi têm nắng mẹ chờ
Mấy mùa cam chín, mấy mùa xuân qua
Mà con vẫn chốn thẳm xa
E khi nắng lửa, mưa sa thất thường

Mẹ ngồi têm nắng mẹ thương
Con cò lặn lội bờ sương tháng ngày
Vẫn cao đầu, sải cánh bay
Mênh mang chở nắng cho đầy biển xanh

Mẹ ngồi têm nắng bên mành
Rót hồn xuống đất cội cành nở hoa

                                                     Trần Đức Đủ

MẸ NGỒI TÊM NẮNG - ảnh 1
Minh họa sưu tầm

LỜI BÌNH:
Trong số nhiều bài thơ hay về mẹ, tôi thích bài "Mẹ ngồi têm nắng" của Trần Đức Đủ, nhà thơ của xứ Kinh Bắc nổi tiếng. Qua bài thơ, tác giả tái hiện chân dung người mẹ già đau đáu nhớ thương, chờ đợi đứa con xa. Tình cảm đó của mẹ đã truyền cảm hứng, tiếp thêm sức mạnh để các con cháu mẹ phấn đấu vươn lên trưởng thành và giúp ích cho đời.

Nhan đề "Mẹ ngồi têm nắng" của bài gây sự chú ý bởi tính độc đáo của nó. "Nắng" vốn là danh từ chỉ ánh sáng trực tiếp từ mặt trời chiếu xuống. Hiện tượng thiên nhiên này không có hình khối, con người không thể cầm hay nắm bắt được. Còn "têm" lại là động từ chỉ tổ hợp những hành động: Bổ quả cau, chia lá trầu thành mảnh nhỏ rồi quệt chút vôi, cuộn lại thành miếng vừa ăn. Vậy mà ở đây, tác giả lại viết "Mẹ ngồi têm nắng", Tứ thơ mới lạ này gợi liên tưởng về người mẹ ăn trầu, từng trải một đời sương gió, giờ đây già yếu chẳng đi xa nổi. Vốn hay làm, mẹ chẳng thể ngồi không. Mẹ têm trầu hay làm bất cứ việc gì đã thành thói quen. Dưới cái nhìn yêu thương, trân quý của người con, mẹ như đang“têm nắng” trước hiên nhà: "Mẹ ngồi têm nắng bên thềm/ Giọt thời gian rụng ướt mềm ca dao/ Lòng mẹ sóng vỗ lao xao/ Con thuyền ký ức níu vào bến mơ".

Thiên nhiên cũng như có tình cảm trước tấm lòng của mẹ. Thời gian là khái niệm diễn tả trình tự xảy ra các sự kiện, nó vô hình nhưng lại được tác giả cảm nhận như những "giọt" rụng xuống dòng sông dạt dào của lòng mẹ. Hình ảnh "sóng vỗ lao xao" và "con thuyền ký ức", "bến mơ" “níu” gợi về những kỷ niệm tình mẹ ngọt ngào thuở trước. Giờ đây các con mẹ lớn lên đã bay đi vào bầu trời cuộc sống. Mẹ không thể ở bên chăm lo cho con nhưng lòng mẹ nhớ nhung không lúc nào nguôi. Chủ thể trữ tình - người con cảm nhận rất rõ điều đó: "Mẹ ngồi têm nắng mẹ chờ/ Mấy mùa cam chín, mấy mùa xuân qua/ Mà con vẫn chốn thẳm xa/ E khi nắng lửa, mưa sa thất thường". Mẹ đợi chờ tin con mỗi ngày. Mẹ lo cho con nơi xa ấy có được khỏe và an lành? Nghệ thuật đảo từ "thẳm xa" như gia tăng hơn nữa niềm mẹ nhớ thương con. Cùng khi ấy, người con lại thương lo cho mẹ, e ngại những lúc "nắng lửa", "mưa sa thất thường" mẹ tuổi cao, sức yếu liệu có ảnh hưởng chăng? Cội nguồn của sự ngóng trông, chờ đợi chính là lòng mẹ thương con: "Mẹ ngồi têm nắng mẹ thương/ Con cò lặn lội bờ sương tháng ngày".

Ở đây người đọc gặp lại hình ảnh quen thuộc "con cò lặn lội". Có điều trong ca dao, hình ảnh đó thường chỉ thân phận của người mẹ. Còn ở bài thơ, hình ảnh này lại xuất hiện trong tâm tưởng người mẹ vận vào người con. "Mẹ ngồi têm nắng" lòng đầy thương yêu đứa con, tuy cuộc sống vất vả nhưng con mẹ có khát vọng sống đẹp "Vẫn cao đầu sải cánh bay/ Mênh mang chở nắng cho đầy biển xanh". Tuy lời thơ không nói cụ thể nhưng người đọc nghĩ rằng con mẹ nơi xa vẫn làm việc không nghỉ để ích nhà, lợi nước. Điều này khiến mẹ càng thương nhớ con không lúc nào nguôi và người con vô cùng cảm kích: "Mẹ ngồi têm nắng bên mành/ Rót hồn xuống đất cội cành nở hoa". Tâm hồn, tấm lòng của mẹ luôn nghĩ suy, thương lo, hy sinh vì con cái và người khác.

Mẹ như mặt đất rộng lớn, màu mỡ, nuôi cho cây cối tươi tốt, cội cành nở hoa dâng hương thơm quả ngọt cho đời. Người con như thầm hứa cần sống xứng với lòng mẹ, sống có ích với cộng đồng. Trong bài, tác giả rất thành công trong việc sử dụng những hình ảnh, từ ngữ sáng tạo, nhiều lần điệp từ "mẹ" (8 lần), điệp ngữ "Mẹ ngồi têm nắng" (5 lần), nhiều từ láy: lao xao, thất thường, lặn lội, mênh mang, cội cành khiến cho hình ảnh người mẹ nhẫn nại đợi chờ, thương nhớ con càng in đậm trong tâm trí người đọc. 

Ý kiến bạn đọc

Tin cùng chuyên mục

Phim lịch sử, chiến tranh Việt Nam: Dấu ấn của ký ức và niềm tự hào

Phim lịch sử, chiến tranh Việt Nam: Dấu ấn của ký ức và niềm tự hào

(PNTĐ) - Điểm lại lịch sử điện ảnh Việt, dòng phim về chiến tranh tuy không sôi động nhưng mỗi tác phẩm đều để lại những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng khán giả, trở thành những bài học lịch sử sống động đi vào lòng người, nhắc nhở chúng ta không quên những năm tháng cha anh đã sống và chiến đấu như thế, không quên lịch sử nước nhà đã trải qua những gì để có cuộc sống hòa bình, êm ấm như hôm nay… Cũng vì vậy, chúng ta thật sự phấn chấn khi dòng phim chiến tranh đang “nở rộ” và được công chúng đón nhận nhiệt tình gần đây.
169 hạt sen và giấc mơ vũ trụ Việt

169 hạt sen và giấc mơ vũ trụ Việt

(PNTĐ) - Khi đồng hồ điểm 8h30 sáng ngày 14/4 tại Texas, Mỹ, tên lửa New Shepard của công ty du hành vũ trụ Blue Origin rời bệ phóng, mang theo 6 người phụ nữ can đảm, đánh dấu chuyến bay có phi hành đoàn toàn nữ đầu tiên kể từ sau sứ mệnh của nữ phi hành gia Valentina Tereshkova năm 1963. Trong số đó, một cái tên khiến hàng triệu người Việt Nam tự hào: Amanda Nguyễn - người phụ nữ gốc Việt đầu tiên chính thức bay vào vũ trụ.
Gia đình không ruột thịt

Gia đình không ruột thịt

(PNTĐ) - Ông sinh vào tháng 5 năm 1960 trong một gia đình nghèo ở xã Bảo An, thành phố Giang Sơn, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). Mất cha từ khi còn nhỏ, ông ra ngoài kiếm sống khi mới 9 tuổi, chăn vịt cho người khác, nhặt rác, bán hàng rong và dựng quầy hàng... Không có nơi ở cố định, ông sống cuộc sống lang thang ở vùng núi biên giới các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tây.