Mẹ ơi, đời mẹ

Chia sẻ

Huy Cận (1919-2005) không chỉ là cây bút hàng đầu của trào lưu Thơ mới mà còn là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Mẹ ơi, đời mẹ khổ nhiều
Trách đời, mẹ giận bao nhiêu cho cùng
Mà lòng yêu sống lạ lùng
Mẹ không phút nản thương chồng, nuôi con.
"Đắng cay ngậm quả bồ hòn,
Ngậm lâu hoá ngọt!" Mẹ còn đùa vui!
Sinh con mẹ đã sinh đời
Sinh ra sự sống, mẹ ngồi chán sao?
Quanh năm có nghỉ ngày nào!
Sớm khuya làm lụng người hao mặt gầy.
Rét đông đi cấy đi cày
Nóng hè bãi cát, đường lầy đội khoai.
Bấu chân khỏi ngã dốc nhoài
Những chiều gánh nước gặp trời đổ mưa.
Giận thầy, mẹ chẳng nói thưa,
Vỉa câu chua chát lời thơ truyện Kiều.
Cắn răng bỏ quá trăm điều
Thuỷ chung vẫn một lòng yêu đời này.
Mẹ là tạo hoá tháng ngày
Làm ra ngày tháng sâu dày đời con.
                                                   1/1974

                                                      Huy Cận

Minh họaMinh họa

LỜI BÌNH
Huy Cận (1919-2005) không chỉ là cây bút hàng đầu của trào lưu Thơ mới mà còn là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Bên cạnh những thi phẩm giàu cảm hứng vũ trụ cho thấy một thế giới nội tâm sâu lắng, ông còn có những bài thơ rất chân thành trong cảm xúc về gia đình. "Mẹ ơi, đời mẹ" viết năm 1974 là một sáng tác như thế.

Bài thơ là tiếng lòng của người con thương yêu, thấu hiểu và tri ân sâu sắc đối với mẹ. Mở đầu, nhịp điệu thơ ngắt ra nghẹn ngào như tiếng khóc: "Mẹ ơi, đời mẹ khổ nhiều/ Trách đời, mẹ giận bao nhiêu cho cùng/ Mà lòng yêu sống lạ lùng/ Mẹ không phút nản thương chồng, nuôi con". Đoạn thơ cho thấy người con thương xót mẹ lắm bởi "đời mẹ khổ nhiều". Con càng quý phục mẹ hơn bởi nghị lực rắn rỏi, lòng yêu sống và tình thương chồng con, hết lòng lo cho gia đình. Cuộc đời mẹ vui ít, buồn nhiều, mẹ đã vượt qua hết: "Đắng cay ngậm quả bồ hòn/ Ngậm lâu hoá ngọt! Mẹ còn đùa vui!" Tác giả sử dụng rất sáng tạo câu tục ngữ dân gian "Ngậm bồ hòn làm ngọt", có sự hoán cải để ý thơ mang thêm nét nghĩa mới đồng thời nói lên được sự hóm hỉnh, tinh thần lạc quan của mẹ. Một khi đã sinh đứa con, "sinh ra sự sống", mẹ chấp nhận vất vả: "Quanh năm có nghỉ ngày nào!/ Sớm khuya làm lụng người hao mặt gầy./ Rét đông đi cấy đi cày/ Nóng hè bãi cát, đường lầy đội khoai". Mọi gian lao không làm mẹ nản lòng. Dù những việc của phụ nữ nông dân quen làm "rét đông cấy lúa" hay việc khó nhọc như "đi cày", giữa nóng hè bỏng rát, "đội khoai" khi mưa đường lầy lội đàn ông thường đảm trách, mẹ vẫn làm "quanh năm" không nghỉ, mặc cho "người hao mặt gầy". Có khi gánh nặng trời mưa, mẹ phải "Bấu chân khỏi ngã dốc nhoài".

Minh họaMinh họa

"Bấu" là động tác bám chặt các đầu ngón chân trên nền đất trơn để cho khỏi ngã. Vừa lo việc đồng, mẹ còn gánh nước về nhà mỗi ngày để gia đình sinh hoạt. Người chồng của mẹ không phải là trụ cột vững chắc để mẹ được cậy nhờ, lắm khi "Giận thầy, mẹ chẳng nói thưa/ Vỉa câu chua chát lời thơ truyện Kiều/ Cắn răng bỏ quá trăm điều/ Thuỷ chung vẫn một lòng yêu đời này". Điều này là nét riêng chỉ mẹ của tác giả mới có. Vì phụ nữ xưa mấy ai được đi học và đọc thuộc được Truyện Kiều để biết "vỉa", nghĩa là chọn ra được những câu phù hợp nhất với hoàn cảnh, đọc lên mọi người cùng nghe.

Điều này cho thấy vốn văn hoá ở mẹ thật sâu rộng và thâm thuý trong ứng xử. Cho dù có lúc giận chồng - như bát đũa kia cũng có khi xô - nhưng trước sau mẹ vẫn "thuỷ chung" một lòng thương chồng con và chăm lo cho gia đình. Hai câu cuối của bài có giá trị khái quát sâu sắc: "Mẹ là tạo hoá tháng ngày/ Làm ra ngày tháng sâu dày đời con". Đến đây, tầm vóc người mẹ được nâng rất cao, sánh với “tạo hoá”, với vũ trụ vô biên làm nên "sâu dày đời con". Nhờ mẹ con mới được có ngày hôm nay, thành người có ích cho quê hương, đất nước. Trong bài, thể thơ lục bát có âm điệu tha thiết được dùng rất hợp khi nói về mẹ; mặt khác, điệp từ "mẹ" (11 lần) cùng nghệ thuật đảo ngữ ở những câu cuối đã khắc sâu hơn nữa công lao và đức hy sinh ở người mẹ nhà thơ cũng như bao bà mẹ Việt khác.

Giờ đây, thi sĩ tài danh Huy Cận đã đi xa nhiều năm và bài thơ này ra đời tròn nửa thế kỷ nhưng những hình ảnh về mẹ và tình mẹ trong thi phẩm vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc.

NGUYỄN THỊ THIỆN

Tin cùng chuyên mục

Phim lịch sử, chiến tranh Việt Nam: Dấu ấn của ký ức và niềm tự hào

Phim lịch sử, chiến tranh Việt Nam: Dấu ấn của ký ức và niềm tự hào

(PNTĐ) - Điểm lại lịch sử điện ảnh Việt, dòng phim về chiến tranh tuy không sôi động nhưng mỗi tác phẩm đều để lại những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng khán giả, trở thành những bài học lịch sử sống động đi vào lòng người, nhắc nhở chúng ta không quên những năm tháng cha anh đã sống và chiến đấu như thế, không quên lịch sử nước nhà đã trải qua những gì để có cuộc sống hòa bình, êm ấm như hôm nay… Cũng vì vậy, chúng ta thật sự phấn chấn khi dòng phim chiến tranh đang “nở rộ” và được công chúng đón nhận nhiệt tình gần đây.
169 hạt sen và giấc mơ vũ trụ Việt

169 hạt sen và giấc mơ vũ trụ Việt

(PNTĐ) - Khi đồng hồ điểm 8h30 sáng ngày 14/4 tại Texas, Mỹ, tên lửa New Shepard của công ty du hành vũ trụ Blue Origin rời bệ phóng, mang theo 6 người phụ nữ can đảm, đánh dấu chuyến bay có phi hành đoàn toàn nữ đầu tiên kể từ sau sứ mệnh của nữ phi hành gia Valentina Tereshkova năm 1963. Trong số đó, một cái tên khiến hàng triệu người Việt Nam tự hào: Amanda Nguyễn - người phụ nữ gốc Việt đầu tiên chính thức bay vào vũ trụ.
Gia đình không ruột thịt

Gia đình không ruột thịt

(PNTĐ) - Ông sinh vào tháng 5 năm 1960 trong một gia đình nghèo ở xã Bảo An, thành phố Giang Sơn, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). Mất cha từ khi còn nhỏ, ông ra ngoài kiếm sống khi mới 9 tuổi, chăn vịt cho người khác, nhặt rác, bán hàng rong và dựng quầy hàng... Không có nơi ở cố định, ông sống cuộc sống lang thang ở vùng núi biên giới các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tây.