Quy định “hệ số lương đặc thù” đối với nhà giáo
(PNTĐ) - Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) vừa công bố dự thảo Nghị định quy định chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với nhà giáo để lấy ý kiến góp ý rộng rãi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Theo dự thảo Nghị định này, tất cả nhà giáo đều được hưởng “hệ số lương đặc thù”.
Đây là quy định cần thiết thiết để hiện thực hóa chủ trương, chính sách “lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”.
Chính sách tiền lương - giải pháp then chốt thu hút người giỏi trở thành nhà giáo
“Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp” là chủ trương đã được Đảng xác định từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (hóa VIII), được khẳng định là một trong số các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và gần đây nhất đã được xác định là nội dung cần tập trung thực hiện tại Kết luận số 91-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW. Tại Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Bộ Chính trị cũng đã xác định cần phải “có chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo”.
Theo đó, tại điểm b khoản 1 Điều 23 Luật Nhà giáo, Quốc hội đã quy định “Lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”. Đây là chính sách đầu tiên cụ thể hóa chủ trương của Đảng về tiền lương của nhà giáo như đã nêu ở trên, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của Quốc hội và toàn xã hội đối với vị trí, vai trò và tính đặc thù hoạt động nghề nghiệp của nhà giáo.

Chính sách tiền lương là giải pháp then chốt để góp phần thu hút người giỏi trở thành nhà giáo, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đồng thời, đây cũng là giải pháp nhằm giúp nhà giáo an tâm công tác, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nhưng để “lương nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp” trở thành hiện thực, Chính phủ cần có giải pháp cụ thể nhằm tác động, điều chỉnh hệ số lương mà nhà giáo hiện đang giữ.
Lương của hầu hết nhà giáo đang xếp thấp hơn viên chức các ngành khác
Theo quy định hiện hành, lương của nhà giáo hiện chưa được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp, thậm chí đa số nhà giáo đang xếp ở thang lương thấp hơn.
Giống như viên chức các ngành khác, tiền lương của nhà giáo đang thực hiện theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Theo đó, nhà giáo và các viên chức nói chung được áp dụng Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước (Bảng 3), hưởng mức lương khởi điểm tương ứng với yêu cầu về trình độ đào tạo (loại B đối với trình độ trung cấp, loại A0 đối với trình độ cao đẳng, loại A1, A2, A3 đối với từ trình độ đại học trở lên).
Bảng 3 có 10 thang lương sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao, tương ứng từ thang 1 đến thang 10 là C1, C2, C3, B, A0, A1, A2.2, A2.1, A3.2, A3.1. Trong 10 thang lương này, hiện chỉ có 03 chức danh nhà giáo được áp dụng lương của viên chức loại A3 là giảng viên đại học cao cấp, giảng viên giáo dục nghề nghiệp cao cấp, giáo viên giáo dục nghề nghiệp cao cấp, chiếm tỷ lệ khoảng 1,17% so với tổng số nhà giáo. Trong khi tỷ lệ này ở các ngành, lĩnh vực khác khoảng 10% so với tổng số viên chức của ngành, lĩnh vực (chức danh cao cấp).

Số chức danh nhà giáo cao cấp còn lại (hạng I ở cấp mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên, dự bị đại học) chiếm khoảng 8,83% so với tổng số nhà giáo, chỉ được xếp lương của viên chức loại A2 (tương đương chức danh viên chức chính của các ngành, lĩnh vực khác). Trong khi đó, theo quy định về nhiệm vụ của chức danh nghề nghiệp hiện nay, nhiệm vụ của tất cả viên chức cao cấp nói chung cũng giống với nhiệm vụ của nhà giáo cao cấp (hạng I) là xây dựng tài liệu, hướng dẫn viên chức các hạng thấp hơn; làm ban giám khảo, ban ra đề hoặc hướng dẫn tại các cuộc thi, hội thi; là nhóm tiên phong trong việc xây dựng, triển khai các định hướng đổi mới của ngành…
Khi rà soát, so sánh thang lương áp dụng, có thể thấy lương của hầu hết nhà giáo (trừ giảng viên cao đẳng, đại học, giáo viên giáo dục nghề nghiệp) đang xếp thấp hơn viên chức các ngành khác như y tế (bác sĩ, dược sĩ), xây dựng (kiến trúc sư, thẩm kế viên), giao thông vận tải (kỹ thuật viên đường bộ, quản lý, bảo trì công trình), tư pháp (lý lịch viên), văn hóa – thể thao (đạo diễn, diễn viên, họa sĩ, huấn luyện viên), khoa học công nghệ (nghiên cứu viên, kỹ sư), thông tin truyền thông (phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình)...
Viên chức các ngành khác đều được phân loại thành 3 – 4 hạng (từ hạng IV đến hạng I), hưởng lương từ A1 – A2.1 – A3.1 (tương ứng với thang lương 6 – 8 – 10). Trong đó, trừ viên chức y tế và viên chức khoa học, công nghệ yêu cầu trình độ tiến sĩ hoặc thạc sĩ với hạng I, các ngành khác chỉ yêu cầu trình độ đào tạo chung của viên chức từ hạng III đến hạng I là đại học.
Trừ giảng viên đại học, cao đẳng và giáo viên giáo dục nghề nghiệp, nhà giáo cũng được phân loại thành 3 – 4 hạng (từ hạng IV đến hạng I), hầu hết đang hưởng lương từ A0 – A1 – A2.2 – A2.1 (tương ứng với thang lương 5 – 6 – 7 – 8) là giáo viên mầm non, phổ thông, dự bị đại học, giáo dục thường xuyên (chiếm tỷ lệ khoảng 88% so với tổng số nhà giáo).
Thang lương áp dụng đối với giáo viên mầm non hiện đang thấp nhất
Bên cạnh đó, thang lương áp dụng đối với giáo viên mầm non hiện đang là A0 (2,10) – A1 (2,34) – A2.2 (4,00), theo 10 thang lương của viên chức thì lương của giáo viên mầm non đang ở thang 5 – 6 – 7 (các viên chức khác chủ yếu hưởng thang lương 6 – 8 – 10 như đã nêu ở trên). Từ đó có thể thấy, thang lương áp dụng đối với giáo viên mầm non hiện đang thấp nhất trong số các chức danh nhà giáo và thấp hơn tất cả viên chức các ngành, lĩnh vực khác. Trong khi môi trường làm việc, tính chất hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non đã được thực tế chứng minh là nặng nhọc.
Theo Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu hiện trạng điều kiện lao động của giáo viên bậc học mầm non làm cơ sở đề xuất xếp loại danh mục nghề nặng nhọc độc hại, nguy hiểm” do Viện Khoa học an toàn và vệ sinh lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nghiên cứu, điểm đánh giá về điều kiện lao động của giáo viên mầm non là 3,69 nằm trong khoảng điểm từ 3,37 – 4,56 tương ứng với điều kiện lao động loại IV – công việc có điều kiện lao động loại IV là nghề, công việc nặng nhọc. Đây cũng là căn cứ để tuổi nghỉ hưu của giáo viên mầm non được giảm 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu bình thường và đã được quy định cụ thể tại Điều 26 Luật Nhà giáo.
Một trong số nguyên tắc quan trọng khi thực hiện chế độ tiền lương là bảo đảm tương quan giữa các ngành, nghề và giữa các loại cán bộ, công chức, viên chức (theo quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 3 Nghị định số 204/2004/NĐ-CP). Tuy nhiên, từ những phân tích và biểu đồ ở trên cho chúng ta thấy rõ, việc xếp lương của nhà giáo hiện không bảo đảm tương quan giữa các ngành, nghề mặc dù có cùng yêu cầu trình độ đào tạo và nhà giáo đã được xác định là có vị thế quan trọng trong xã hội.
“Hệ số lương đặc thù” là cần thiết khi chưa ban hành chính sách tiền lương mới
Để triển khai thi hành Luật Nhà giáo có hiệu lực ngày 01/01/2026, hiện tại, Bộ GD-ĐT đang tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định quy định chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với nhà giáo. Một trong những chính sách nổi bật dự kiến quy định tại Nghị định này là việc tất cả nhà giáo đều được hưởng “hệ số lương đặc thù”.
Trong đó, giáo viên mầm non được hưởng hệ số lương đặc thù mức 1,25 so với hệ số lương hiện hưởng; các chức danh nhà giáo khác được hưởng hệ số lương đặc thù mức 1,15 so với hệ số lương hiện hưởng. Đối với nhà giáo giảng dạy tại trường, lớp dành cho người khuyết tật, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập, trường phổ thông nội trú vùng biên giới được cộng thêm 0,05 so với mức quy định.
Hệ số lương đặc thù được tính với mức lương và không dùng để tính mức phụ cấp với công thức tính mức lương như sau:
Mức lương thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2026 | = | Mức lương cơ sở | x | Hệ số lương hiện hưởng | x | Hệ số lương đặc thù |
Việc xếp lương của nhà giáo chỉ có thể giải quyết căn cơ khi Chính phủ ban hành chính sách tiền lương mới và thực hiện việc sắp xếp lại thang lương của nhà giáo cùng các viên chức ngành khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh Chính phủ chưa ban hành chính sách tiền lương mới thì việc ban hành quy định hệ số lương đặc thù (như dự thảo Nghị định quy định chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với nhà giáo đang dự kiến) là cần thiết.
Hệ số lương đặc thù mặc dù không giúp lương của nhà giáo được xếp “cao nhất” nhưng sẽ giúp lương của nhà giáo được xếp “cao hơn” so với viên chức có cùng thang lương áp dụng. Đội ngũ nhà giáo cả nước trông mong vào sự đồng thuận của các cấp có thẩm quyền đối với quy định “hệ số lương đặc thù” để từng bước giải quyết các bất cập của hệ thống thang bảng lương hiện nay, đồng thời thực hiện chủ trương “lương nhà giáo cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”./.










