Triển khai gói hỗ trợ 26.000 tỷ: Đừng để tiền khó đến với dân !
Trước tình hình dịch Covid-19 kéo dài, Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết 68/NQ-CP với nguồn kinh phí dự kiến lên tới 26.000 tỷ đồng được kỳ vọng giúp người lao động, người sử dụng lao động vượt qua khó khăn bởi đại dịch Covid-19.
Người dân, doanh nghiệp hy vọng, lần này, những người trong đối tượng thụ hưởng sẽ nhanh chóng tiếp cận được gói hỗ trợ, thay vì ngậm ngùi với gói 62.000 tỷ đồng đợt 1 - tiền thì có nhưng lại khó đến với dân do thủ tục giải ngân vô cùng phức tạp.
(Ảnh: Minh họa)
Làn sóng dịch lần thứ 4 với diễn biến phức tạp và đang lan rộng 56 tỉnh, thành như một cú hích mạnh vào những khó khăn đang kéo dài của người dân nói chung, người lao động, doanh nghiệp nói riêng, khiến tất cả càng lao đao hơn. Khi mà dịch bệnh diễn biến phức tạp trên khắp cả nước, lệnh giãn cách xã hội được thực hiện ở nhiều địa phương, đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều người lao động bị thất nghiệp, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt động, khó khăn tiếp tục chồng chất. Trong bối cảnh này, việc tiếp cận được nguồn hỗ trợ từ Chính phủ là thiết thực và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Với quyết tâm không để một người dân phải thiếu đói trong đại dịch, và hỗ trợ cho các doanh nghiệp có đủ sức duy trì để khôi phục sản xuất, vượt qua giai đoạn khó khăn, lần thứ hai, Chính phủ triển khai gói hỗ trợ an sinh xã hội. Mục đích nhân văn của Chính phủ và Nhà nước ta đã thể hiện rõ trong việc kịp thời ban hành các chính sách an sinh cho người dân gặp khó khăn trong đại dịch.
Tuy nhiên, trong gói an sinh 62.000 tỷ, theo các cơ quan thẩm tra, đánh giá, việc triển khai các gói hỗ trợ còn chậm và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Tiền hỗ trợ của Chính phủ có nhưng lại khó đến với người dân do các thủ tục phức tạp, kéo dài. Nhiều nhóm đối tượng dễ tổn thương, khó khăn không thể tiếp cận được với các gói hỗ trợ của Chính phủ. Thống kê từ việc giải ngân các gói hỗ trợ từ gói 62.000 đồng cho thấy, có 98% doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi Covid-19 đang gặp khó khăn, đứng trước nguy cơ phá sản. Tuy nhiên chỉ có 2% doanh nghiệp được hưởng chính sách này. Ở gói hỗ trợ người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc thông qua chính sách cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội với quy mô 16.000 tỷ đồng, đã giải ngân cho 245 người sử dụng lao động vay để trả lương ngừng việc cho 11.276 người lao động với số tiền 41,8 tỷ đồng, tương ứng với 0,26% quy mô gói hỗ trợ. Tương tự ở gói hỗ trợ thông qua chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất với quy mô khoảng 6.500 tỷ đồng đã nhận và giải quyết cho 192.503 lao động của 1.846 đơn vị, doanh nghiệp với tổng số tiền là trên 786 tỷ đồng, tương ứng với 12,1% quy mô gói hỗ trợ... Nhìn vào tỷ lệ phần trăm giải ngân, rõ ràng sự thành công của việc triển khai gói hỗ trợ an sinh xã hội như kỳ vọng Chính phủ đặt ra là không đạt được.
Vì vậy, với gói hỗ trợ 26.000 tỷ đồng lần này, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Chính phủ là chính sách linh hoạt, thủ tục đơn giản để tiền hỗ trợ nhanh chóng đến được với đối tượng thụ hưởng, khắc phục những hạn chế đã gặp phải khi triển khai gói an sinh đợt 1. Đây cũng là điều mà người dân, người lao động, doanh nghiệp đang chịu tổn thất nặng nề bởi đại dịch mong chờ nhất trong thời điểm này.
Tại buổi công bố Quyết định số 23/2021 của Thủ tướng về thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động theo Nghị quyết 68 của Chính phủ, theo Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, các hướng dẫn thực hiện gói hỗ trợ lần này đã được thiết kế trên cơ sở rút kinh nghiệm từ triển khai gói hỗ trợ đợt 1, trên tinh thần mở hết cỡ cho người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận. Đơn cử như ở gói hỗ trợ đợt 1, chính sách cho doanh nghiệp vay trả lương cho người lao động, Ngân hàng Chính sách xã hội mỗi tháng chỉ xét 1 lần thì hiện nay nhận hồ sơ sẽ xét duyệt ngay trong 7 ngày (sau 4 ngày trả lời và giải ngân 3 ngày sau đó). Thời gian xem xét, giải quyết đề nghị hỗ trợ của các đối tượng tối đa là 2 ngày thay vì 4 ngày ở gói an sinh đợt 1.
Như vậy, chính sách đã có, “điểm nghẽn” trong việc thực thi, triển khai cũng đã được nhận diện. Việc còn lại là các cấp chính quyền ở các địa phương cần đẩy nhanh việc rà soát đối tượng thụ hưởng, nhanh chóng triển khai để người lao động và doanh nghiệp sớm nhận được tiền hỗ trợ, tháo gỡ một phần khó khăn trước mắt. Có như vậy, chính sách hỗ trợ mang ý nghĩa nhân văn của Chính phủ mới thật sự đi vào cuộc sống.
HẠ THI