Tháng Hành động quốc gia về dân số và Ngày Dân số Việt Nam (26/12):
“Khuyến sinh” để nâng cao chất lượng dân số
(PNTĐ) - Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ trở thành quốc gia "chưa giàu đã già" với mức sinh giảm và tốc độ già hóa dân số kỷ lục. Đây là thách thức kép đe dọa trực tiếp đến kinh tế, an sinh xã hội và thị trường lao động.
Kỳ 2: Thách thức kép cho sự phát triển bền vững

(Ảnh minh họa).
Việt Nam đánh mất lợi thế về lao động trẻ
Trong nhiều năm qua, mức sinh tại Việt Nam liên tục đi xuống, đặc biệt tập trung tại các đô thị lớn - nơi chi phí sinh hoạt và áp lực cuộc sống ngày càng gia tăng. Mức sinh trung bình hiện chỉ quanh mức thay thế, thậm chí ở nhiều thành phố lớn chỉ còn 1,2 - 1,4 con/phụ nữ. Cùng lúc đó, tốc độ già hóa dân số tăng nhanh khiến Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ chuyển sang dân số già nhanh nhất thế giới. Điều này khiến các lợi thế về lao động trẻ vốn giúp Việt Nam phát triển nhiều năm qua dần biến mất, trong khi hệ thống an sinh xã hội phải đối mặt với áp lực ngày một lớn hơn.
GS.TS Đặng Nguyên Anh - Viện Xã hội học và Tâm lý học (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) cho biết, tại Việt Nam, độ tuổi kết hôn trung bình tiếp tục tăng, đặc biệt ở nhóm phụ nữ có trình độ học vấn cao và sinh sống tại các đô thị lớn. Việc kết hôn muộn làm rút ngắn thời gian sinh sản, từ đó kéo theo sự suy giảm đáng kể số con thực tế. Bên cạnh đó, Việt Nam hiện có tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại ở mức cao trong khu vực, nhất là ở những cặp vợ chồng đã sinh đủ số con mong muốn, cũng góp phần duy trì mức sinh thấp. Cùng với đó, tình trạng vô sinh, hiếm muộn ngày càng gia tăng trong khi các dịch vụ hỗ trợ sinh sản còn chi phí cao và hạn chế khả năng tiếp cận ở khu vực nông thôn; nạo hút thai vẫn diễn ra phổ biến, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ; lao động di cư khu vực phi chính thức chưa được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ sức khỏe sinh sản có chất lượng.
PGS.TS Chu Văn Tuấn - Viện trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, khẳng định: “Kinh nghiệm nhiều nước đi trước cho thấy, mức sinh sau khi giảm về mức thay thế trong giai đoạn nhất định thường tiếp tục giảm sâu, dẫn đến già hóa dân số quá nhanh, thiếu hụt lực lượng lao động, ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu phát triển bền vững. Những nỗ lực nâng mức sinh thường đòi hỏi rất nhiều nguồn lực nhưng kết quả cũng rất hạn chế”.
PGS.TS Hoàng Thị Nga - Đại học Công đoàn nhận định: Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng suy giảm mức sinh hiện nay là sự tác động đồng thời của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội, đặc biệt rõ nét trong nhóm công nhân và người lao động, trước hết, chi phí nuôi dưỡng và giáo dục con cái ngày càng gia tăng, từ việc chăm sóc y tế, học hành đến nhu cầu vui chơi, phát triển kỹ năng, đã trở thành gánh nặng tài chính lớn đối với nhiều gia đình trẻ. Bên cạnh đó, áp lực công việc trong môi trường đô thị hiện đại với cường độ lao động cao, giờ giấc ít linh hoạt khiến nhiều cặp vợ chồng trì hoãn hoặc ngại có thêm con vì lo thiếu thời gian chăm sóc và cân bằng cuộc sống gia đình. Ngoài ra, dòng chảy di cư nội địa - khi lao động phải rời quê hương để làm việc tại các khu công nghiệp hoặc thành phố lớn dẫn đến sự phân ly về không gian gia đình, vợ chồng ít có cơ hội đoàn tụ, nuôi dưỡng tình cảm bền chặt, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định sinh con.
Hệ lụy đối với thị trường lao động và hệ thống an sinh
Mức sinh thấp là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến già hóa dân số và dân số già. Mức sinh giảm, tỷ lệ trẻ em trong tổng dân số giảm nên tỷ lệ người trong độ tuổi lao động và người cao tuổi tăng lên, dẫn đến già hóa dân số, thiếu hụt lao động, ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Đây là vấn đề đáng báo động.

Theo ông Lê Thanh Dũng - Cục trưởng Cục Dân số (Bộ Y tế), mức sinh thay thế là mức sinh trung bình của người phụ nữ trong toàn bộ cuộc đời của mình, sinh đủ số con để thay mình thực hiện chức năng sinh đẻ và duy trì nòi giống. Mức sinh thay thế là khi tổng tỷ suất sinh đạt 2,1 con/phụ nữ. Khi mức sinh giảm thấp dẫn tới suy giảm quy mô dân số, cơ cấu tuổi của dân số trong tương lai, suy giảm nhóm dân số trong độ tuổi lao động; tác động mạnh vào quá trình di cư, tăng nhanh quá trình già hóa dân số, mất cơ hội tận dụng cơ cấu dân số vàng…
"Việt Nam đang có xu thế giảm mức sinh thay thế, mặc dù chưa ở mức báo động nhưng điều này chắc chắn sẽ trở thành vấn đề lớn nếu chúng ta không có giải pháp can thiệp từ bây giờ"- ông Lê Thanh Dũng cảnh báo.
Sự suy giảm mức sinh đang đe dọa trực tiếp đến nguồn cung lao động tương lai. Các mô hình dự báo dân số chỉ ra rằng, nếu xu hướng này duy trì, Việt Nam sẽ chấm dứt giai đoạn “dân số vàng” giai đoạn mà tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm ưu thế vào khoảng năm 2039. Đến năm 2042, quy mô dân số lao động sẽ đạt đỉnh điểm, sau đó bắt đầu suy giảm, và từ năm 2054 trở đi, tổng dân số quốc gia có thể bước vào giai đoạn tăng trưởng âm. Những thay đổi này không chỉ làm giảm lực lượng lao động mà còn tăng gánh nặng cho hệ thống an sinh xã hội, nơi mà số lượng người cao tuổi phụ thuộc vào nhóm lao động trẻ sẽ tăng vọt, dẫn đến sự mất cân đối trong phân bổ nguồn lực kinh tế và lao động.
Thực tế cho thấy, thị trường lao động Việt Nam đang dần bước vào thời kỳ thiếu hụt lao động - điều từng được xem là khó xảy ra trong một quốc gia có truyền thống dân số trẻ. Trong tương lai gần, nhiều ngành nghề có thể đối mặt tình trạng thiếu nhân lực nghiêm trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi kỹ năng cao như công nghệ, sản xuất hiện đại, năng lượng xanh hay dịch vụ chất lượng cao. Khi lực lượng lao động suy giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng có nguy cơ chậm lại, khiến mục tiêu vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình trở nên khó khăn hơn. Không chỉ vậy, mức sinh giảm kéo dài làm thu hẹp quy mô dân số trong độ tuổi lao động, dẫn đến nguy cơ thiếu nhân lực kế cận. Đây là thách thức lớn cho các doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh quốc gia và khả năng thu hút đầu tư nước ngoài.
Song hành với mức sinh thấp là tốc độ già hóa dân số ngày càng nhanh. Việt Nam chỉ mất khoảng 25 năm để chuyển từ dân số “già hóa” sang “dân số già”, rút ngắn gấp nhiều lần so với các quốc gia phát triển. Điều này đồng nghĩa với việc hệ thống an sinh, đặc biệt là quỹ hưu trí, sẽ chịu áp lực khổng lồ trong những năm tới. Khi số người trong độ tuổi lao động giảm mà số người hưởng lương hưu tăng, hệ thống bảo hiểm xã hội sẽ mất cân đối nếu không có cải cách căn bản. Cùng với đó, nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi tăng nhanh, trong khi hệ thống dịch vụ chăm sóc dài hạn còn thiếu, năng lực y tế cho nhóm cao tuổi chưa đáp ứng được yêu cầu. Mô hình gia đình truyền thống - nơi con cái chăm sóc cha mẹ cũng đang thay đổi khi mỗi gia đình chỉ có một con hoặc hai con, thậm chí có xu hướng sống độc thân.
PGS.TS Hoàng Thị Nga - Đại học Công đoàn nhấn mạnh: Tỷ lệ sinh thấp kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng già hóa dân số nhanh, làm thu hẹp quy mô lực lượng lao động trong tương lai. Khi đó, nền kinh tế phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt lao động trẻ, trong khi chi phí an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi lại ngày càng gia tăng. Đây là một thách thức lớn cho các ngành sản xuất, dịch vụ cũng như cho chiến lược phát triển nhân lực quốc gia. Khi tỷ lệ sinh giảm mạnh và già hóa dân số diễn ra sớm, nền kinh tế sẽ chịu áp lực kép: nguồn cung lao động suy giảm, năng suất lao động khó tăng kịp, trong khi chi tiêu công cho y tế, hưu trí và phúc lợi xã hội buộc phải mở rộng.
Mức sinh thấp không chỉ là câu chuyện của từng gia đình mà bài toán lớn của cả nền kinh tế và hệ thống an sinh. Trước thực trạng Việt Nam hiện nay đang nảy sinh những vấn đề cần phải kịp thời giải quyết, như mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp so với mức sinh thay thế, chất lượng dân số chưa đáp ứng được yêu cầu, vừa qua, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Dân số nhằm khắc phục các hạn chế, tồn tại, đáp ứng yêu cầu công tác dân số và phát triển trong thời gian tới.
(Còn tiếp)














