Bài tham dự cuộc thi viết "Các vấn đề gia đình thời nay" lần thứ XIII năm 2023
Từ nếp nhà xưa nghĩ nếp nhà nay
(PNTĐ) -Thời thơ ấu của tôi lớn lên ấm áp, hồn nhiên trong một ngôi nhà trên con phố đông vui, sầm uất bậc nhất với nghề kim hoàn nổi tiếng trong 36 phố phường Hà Nội. Ngôi nhà có đặc trưng hình lòng ống cổ kính thâm nghiêm với 3 tầng gác, cửa sổ với khung sắt đúc hoa, trong kính ngoài chớp, nền nhà lát gạch cổ trơn bóng, ban công rộng và có những ô cửa sắc màu với giàn hoa giấy.

Trong ngôi nhà tam tứ đại đồng đường bà nội, gia đình tôi và bác ruột ở chung với nhau, gắn bó bên nhau cả một quãng đời tuổi thơ. Sau này khi đã trưởng thành lập gia đình riêng trong tôi vẫn hiện lên hình bóng bà nội lưng còng áo the, về những phép tắc bà dạy bảo khi tôi còn là cô bé nhảy lò cò hồn nhiên con nít.
Bà nội tôi tên gọi Cụ Cả Điệp. Bà góa chồng năm 30 tuổi vì ông nội tôi bị bệnh thương hàn, đã ra đi ở tuổi 34. Bà gồng gánh vừa thay ông kinh doanh quán xuyến cửa hàng vàng thương hiệu Vĩnh Tường trên con phố cổ kính Hàng Bạc vừa chăm sóc 4 người con trứng gà, trứng vịt (khi ông mất bố tôi mới chỉ 4 tuổi). Sau biến cố ông nội tôi mất, bà sắp xếp lại công việc gia đình nuôi thêm hai u giúp việc để tập trung kinh doanh nuôi gia đình, dạy bảo con cháu gìn giữ nếp nhà theo khuôn phép người Hà Nội xưa.
Bà rất nghiêm, tần tảo tiết kiệm không lãng phí bất cứ thứ gì, tấm áo mặc rách sờn tay bà tự ngồi mạng sang sợi mặc lại. Khi châm lửa nhóm bếp bà không quẹt que diêm mà cuốn tờ giấy mồi lửa ở bếp củi nhóm sang bếp dầu. Bà thường nói với con cháu sống phải biết chắt bóp, lo xa, làm khi lành để dành khi đau. Bà luôn kiên định với nguyên tắc sống: “Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hàn tiện”. Sự kiên định ấy bà giữ bên mình, trong sinh hoạt hàng ngày, chi tiêu sinh hoạt, nuôi dạy các con
Tôi nhớ lắm buổi sáng thức dậy khi còn mắt nhắm mắt mở từ gác 2 đi xuống phòng ăn tầng 1 câu cửa miệng của tôi là: “Con thưa bà con đã dậy”. Bà ngồi đó trên tấm phản rộng tay lần tràng, chiếc giá nhỏ làm kệ gác quyển kinh, một tay gõ mõ tụng kinh mỗi sáng. Tôi cúi gập người chào bà bằng câu chào quen thuộc như một phản xạ tự nhiên, chào xong tôi chờ ý bà. Khi bà ngẩng đầu gật khẽ coi như nghi thức buổi sáng hoàn tất. Ngày nào, tôi và các chị em trong nhà cũng chào như vậy. Đối với lũ trẻ con chúng tôi thì đó là phép nhà không thể thiếu.
Năm tháng đi qua bố tôi và các anh chị em lớn lên trong hoàn cảnh thiếu hình bóng người Cha nhưng lại có được lời ru, sự nghiêm khắc đầy trách nhiệm của bà, để rồi mãi sau này khi bà đi xa mới thấy thấm thía những lời dạy bảo như một chất xúc tác mạnh mẽ hình thành cốt cách bản chất thanh cao của con người biết Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín. Các con của bà trong đó có bố tôi đều tốt nghiệp đại học và giữ những vị trí công tác quan trọng trong cơ quan đơn vị. Đối với cháu nội bà dạy chị em chúng tôi việc chào hỏi người lớn, khi có khách đến nhà dù lạ hay quen thì chị em tôi luôn khoanh tay cúi đầu chào. Đó là việc mời cơm trước khi ăn “Con mời ông bà, bố mẹ, anh chị mời cơm”. Rồi đến việc rót nước, mời tăm, vô phép ông bà, bố mẹ sau khi ăn cũng được chị em tôi thực hiện rất nghiêm túc và vui vẻ.
Sự chỉ bảo ân cần từ cách dạy dỗ của bà nội và gia đình khiến chúng tôi biết cư xử khi ra ngoài xã hội, không chỉ nhà tôi mà hầu hết các gia đình thời ấy đều có cách dạy con rất tinh tế, để rồi sau này bước chân về nhà chồng tôi không gặp khó khăn trong giao tiếp và được mẹ chồng rất quý mến vì những khuôn phép được học từ nhà mình. Vậy nên trước đây chuyện con cái cãi lại hoặc ngược đãi, vô lễ với ông bà, cha mẹ là điều không thể xảy ra, nếu cá biệt sẽ bị xã hội lên án rất gay gắt. Thế nhưng ngày nay trong xã hội mà con người được tiếp cận với đủ mọi loại hình thông tin, dân trí mở mang thì không thiếu chuyện con cái mắng chửi ngược đãi cha mẹ, đi ngược lại đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, lễ nghĩa bỏ qua. Hằng ngày qua truyền thông, chúng ta không khỏi đau lòng vì những câu chuyện “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng, kể ngày”, những vụ bạo hành ngược đãi cha mẹ vẫn còn xuất hiện đâu đây trong xã hội vốn coi trọng sự chăm sóc người cao tuổi.
Ngày nay, bữa cơm một số gia đình gần như thiếu vắng câu mời, hỏi, vô phép khi ăn mạnh ai nấy ăn. Có những bữa cơm gia đình chưa thực sự gắn kết, không ít các cháu ngồi xuống là ăn, hồn nhiên cứ vô tư ăn uống không cần biết còn ai chưa ăn. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” việc ăn cũng quan trọng lắm, bởi vậy mới có câu “học ăn, học nói, học gói, học mở”.
Ngày trước xung quanh gia đình tôi trong ngôi nhà phố cổ có những người hàng xóm sống bên nhau mấy chục năm tình cảm lại rất khăng khít. Một nhà có hiếu, hỉ là cả xóm cùng tới phụ giúp, có miếng gì ngon đều chia sẻ. Ngày nay cuộc sống thời công nghiệp điều kiện kinh tế khấm khá hơn, hầu hết các gia đình ở riêng kín cổng cao tường, chuyện nhà ai nấy biết, có hỷ mời thì đi, ma chay đến viếng rồi về, thậm chí hàng xóm cả năm, lễ Tết chẳng đặt chân sang nhà nhau. Đến nỗi những đứa trẻ cùng xóm, cùng phố cũng ít khi nào có dịp chơi chung. Ngày xưa, học trò kính trọng, yêu quý thầy cô nhưng bây giờ thì khác, chuyện trò cãi thầy đã không hiếm.
Chỉ những lời nhắc nhở bảo ban nghiêm khắc uốn nắn năm xưa của bà như cây non được uốn phép tắc lễ nghĩa lại giáo dục chị em chúng tôi cách sống và hành xử phải phép, là tiền đề xây dựng nhân cách mỗi người trưởng thành chín chắn theo thời gian.
Lễ nghĩa với người Việt Nam là truyền thống, lễ nghĩa tạo ra nhân cách con người giàu tính nhân văn, biết trọng đạo lý, hiếu thuận mẹ cha… Lễ nghĩa của con cái với cha mẹ, ông bà, học trò với thầy, vợ chồng con cái, giữa làng xóm với nhau và giữa con người với nhau. Lễ nghĩa là giá trị đạo đức và nhân văn sâu sắc được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và dù trong hoàn cảnh nào thì việc trọng lễ nghĩa cũng luôn được xã hội ủng hộ, kính trọng và tôn vinh.
Giờ đây sống trong xã hội hiện đại, chúng ta cũng không thể nào coi nhẹ lễ nghĩa, vì đó là then chốt nền tảng đạo đức để chúng ta tiếp tục duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ mãi nếp nhà trong gia đình.