Để không còn khoảng cách giới trong chính sách bảo hiểm xã hội
(PNTĐ) -Khoảng cách giới trong tỷ lệ tham gia thị trường lao động và trong thu nhập tiếp tục đặt phụ nữ vào tình thế bất lợi hơn so với nam giới. Điều này tác động tới khả năng tiếp cận các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) của phụ nữ cũng như mức hưởng BHXH của họ.
Đảm đương nhiều trọng trách nhưng vẫn thiệt thòi trong hưởng lương hưu
Theo báo cáo của tổ chức Lao động quốc tế (ILO), mặc dù tỷ lệ bao phủ ở nữ giới cao hơn, nhưng chỉ có 16% phụ nữ độ tuổi từ 65 trở lên được hưởng lương hưu BHXH so với 27,3% nam giới. Thời gian đóng bảo hiểm bình quân của phụ nữ ít hơn 4 năm so với nam giới. Điều đáng nói, với nhóm người từ 80 tuổi trở lên, tỷ lệ này càng chênh lệch, lần lượt nữ giới khoảng 6,9% và nam giới 25,9%. Chưa kể, mức hưởng lương hưu cũng có sự chênh lệch, khi bình quân của nam giới là hơn 5,76 triệu đồng/người/tháng, còn nữ giới là 4,68 triệu đồng/ người/tháng...
Một bất cập khác đến từ tình trạng già hóa dân số. Năm 2020, phụ nữ chiếm 60% nhóm người độ tuổi từ 65. Hiện nay phụ nữ đang phải dành nhiều thời gian thực hiện công việc chăm sóc người thân trong gia đình hơn so với nam giới. Theo ước tính 14,5% phụ nữ so với tỷ lệ 5,5% nam giới rời khỏi lực lượng lao động vì những lý do liên quan tới chăm sóc người thân trong gia đình.
Có nhiều nguyên nhân làm dài hơn khoảng cách về giới đối với nhóm người hưởng chế độ hưu trí. Lao động nữ nghỉ hưu ở độ tuổi sớm hơn nam, nên số năm bình quân đóng BHXH thấp hơn (nữ giới là 27,4 năm ở khu vực tư nhân và 31 năm trong khu vực nhà nước; còn nam giới lần lượt là 31,8 năm và 34,8 năm). Ngoài ra, còn một thực tế đáng lo ngại là việc nhiều người rút BHXH một lần, tác động tới việc tích lũy thời gian đóng bảo hiểm. Điều đáng lưu ý là đa phần người hưởng BHXH một lần là phụ nữ trong độ tuổi còn trẻ, bởi điều này đồng nghĩa với việc có ít phụ nữ được hưởng lương hưu hàng tháng.
Rút ngắn khoảng cách giới trong chế độ bảo hiểm
Nhìn ở góc độ giới, một số quy định trong pháp luật về BHXH đã tính đến các đặc thù về giới. Cụ thể như giảm thời gian đóng BHXH đối với lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn để được hưởng lương hưu. Tăng thời gian nghỉ chế độ thai sản từ 4 tháng lên 6 tháng và quy định chế độ nghỉ thai sản đối với nam giới khi vợ sinh con; chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ.
Thời gian qua, Hội LHPN Việt Nam đã đề xuất nhiều chính sách, chương trình, đề án đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, góp phần thực hiện an sinh xã hội, thể chế hóa quy định pháp luật về bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và tổ chức Hội. Nhiều chính sách đã được các cơ quan có thẩm quyền tiếp thu, ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lao động nữ, chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số. Bên cạnh đó là chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021 có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng.
Chính sách BHXH đều được coi là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. Theo Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Trần Đình Liệu, mục tiêu bình đẳng giới và an sinh xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi chính sách được điều chỉnh phù hợp sẽ giúp nâng cao tỷ lệ nữ giới được thụ hưởng các quyền lợi của BHXH. Bài toán đối với các nhà hoạch định chính sách là sửa đổi, hoàn thiện sao cho bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, kết hợp hài hòa các nguyên tắc đóng - hưởng, không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động, bảo đảm số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối Quỹ BHXH trong dài hạn; xu hướng già hóa dân số; tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.