ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO:
Nền tảng của niềm tin công chúng
(PNTĐ) - Trong bất kỳ nền báo chí nào, dù ở thời chiến hay thời bình, dù trong môi trường truyền thống hay số hóa, thì một yếu tố luôn mang tính nền tảng, đó chính là đạo đức nghề nghiệp của người làm báo. Đặc biệt, trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, khi mạng xã hội có thể “sản xuất” nhanh hơn cả báo chính thống, thì yêu cầu về đạo đức nhà báo lại càng trở nên cấp thiết, vừa để định hướng dư luận đúng đắn, vừa để bảo vệ danh dự của nghề báo - một nghề cao quý nhưng cũng đầy thử thách.

Đạo đức không phải là điều gì cao siêu hay xa lạ. Với người làm báo, đó là sự trung thực với sự thật, là thái độ tôn trọng đối với nhân vật trong bài viết, là bản lĩnh chống lại cái sai cái ác, bảo vệ lẽ phải, điều thiện. Vì nhà báo có vai trò định hướng dư luận nên đạo đức nhà báo cũng là thể hiện trách nhiệm của người làm báo với công chúng - những người luôn đặt niềm tin vào mỗi con chữ ta viết ra. Chính vì vậy, đạo đức nhà báo không chỉ là quy tắc hành nghề mà còn là thước đo phẩm chất và lương tâm nghề nghiệp.
Đạo đức nhà báo: Kim chỉ nam quan trọng
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là tập hợp các chuẩn mực hành vi, thái độ, ứng xử mà người làm báo cần tuân thủ trong quá trình tác nghiệp. Đó là sự trung thực trong việc đưa tin, là sự khách quan trong xử lý thông tin, là lòng nhân văn khi phản ánh những số phận yếu thế và là bản lĩnh, sự tỉnh táo khi đối diện với những áp lực vô hình từ xã hội, thị trường hay chính nội bộ cơ quan báo chí.
Không có đạo đức, người làm báo có thể trở thành công cụ tuyên truyền lệch lạc, tiếp tay cho tin giả, thông tin sai sự thật hoặc bị cuốn vào vòng xoáy lợi ích. Một nhà báo chân chính không đơn thuần là người ghi chép sự kiện như một “nhà chép sử đương thời”, mà là người “gạn đục khơi trong”, biết lựa chọn cái đúng, cái cần nói, và nói bằng cái tâm nghề nghiệp trong sáng.
Ở Việt Nam, Luật Báo chí 2016 và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp do Hội Nhà báo ban hành là kim chỉ nam quan trọng. Cụ thể, tại điểm b, khoản 2, Điều 8 Luật Báo chí quy định: Hội Nhà báo Việt Nam “Ban hành và tổ chức thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo”. Quy định này không chỉ khẳng định đạo đức nghề nghiệp là yếu tố hết sức quan trọng đối với mỗi người làm báo, tạo ra hành lang pháp lý đối với người làm báo trong quá trình tác nghiệp mà còn đồng thời khẳng định yếu tố đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí của mọi hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, không phân biệt giữa người làm báo có Thẻ Nhà báo, hay người làm báo không có Thẻ Nhà báo.
Đặc biệt, 10 điều quy định đạo đức người làm báo Việt Nam khẳng định rõ các yêu cầu về chính trị, đạo đức, chuyên môn và cả lối sống, nhằm xây dựng một đội ngũ nhà báo không chỉ giỏi về nghề mà còn sáng về tâm. Trong đó nhấn mạnh về hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi. Bảo vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia rẽ, kích động xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết, hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc. Đồng thời nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác…
Việc học tập để nâng cao trình độ cũng được đưa vào quy định để mỗi nhà báo ngày một nâng tầm trong điều 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại ngữ, phấn đấu vì một nền báo chí dân chủ, chuyên nghiệp và hiện đại. Điều 10 nhấn mạnh: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện những quy định trên, đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và trách nhiệm của người làm báo”.
10 điều quy định đạo đức người làm báo Việt Nam thật sự là hệ thống tiêu chí hoàn chỉnh, tương ứng với ý thức công dân, đạo đức nghề nghiệp người làm báo. Đó chính là căn cứ để đánh giá về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, đồng thời cũng là yêu cầu, là tiêu chí bắt buộc mà mỗi nhà báo cần thực hiện trong quá trình hành nghề.
Những biểu hiện lệch chuẩn đạo đức nghề nghiệp
Tại Hội thảo khoa học Quốc gia mới đây nhân kỷ niệm 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam, 100 tham luận của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà lãnh đạo, quản lý về báo chí gửi đến và các tham luận trực tiếp trình bày đã tập trung trao đổi, thảo luận, làm sâu sắc hơn ý nghĩa khoa học và thực tiễn về sự kiện 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam, tập trung vào các nhóm nội dung, vấn đề chủ yếu là: Báo chí cách mạng đồng hành cùng dân tộc trong đấu tranh giành độc lập dân tộc (1925-1945). Báo chí cách mạng Việt Nam đồng hành cùng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đóng góp quan trọng vào thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước. Báo chí cách mạng Việt Nam đồng hành cùng dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và trong thời kỳ đổi mới, hội nhập. Bối cảnh mới, những thuận lợi, khó khăn và những vấn đề đặt ra đối với báo chí cách mạng Việt Nam. Giải pháp xây dựng, phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Thực tiễn không thể phủ nhận những đóng góp to lớn của báo chí vào công cuộc giải phóng dân tộc, công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn báo chí cũng cho thấy không ít trường hợp cá nhân hoặc tổ chức đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, để lại hậu quả nghiêm trọng cả về mặt pháp lý lẫn uy tín xã hội. Một số biểu hiện phổ biến có thể kể đến như:
Đưa tin sai sự thật: Nhiều nhà báo hoặc cơ quan báo chí vì chạy theo xu hướng “hot”, “giật gân” đã đưa những thông tin thiếu kiểm chứng, gây hoang mang cho cộng đồng. Ví dụ, trong đại dịch Covid-19, không ít thông tin thất thiệt về ca nhiễm, thuốc điều trị hay các biện pháp phòng dịch lan truyền từ các nguồn báo chưa được kiểm chứng. Đôi khi cũng chỉ là việc đặt tít giật gân, câu view, làm sai bản chất của sự việc theo kiểu “treo đầu dê bán thịt chó” cũng khiến cho dư luận hoang mang.
Xâm phạm đời tư: Có không ít bài viết đi quá giới hạn thông tin cần thiết, khai thác cuộc sống riêng tư của cá nhân, nghệ sĩ, người nổi tiếng... gây tổn thương và phản ứng ngược từ công chúng. Điều này thể hiện sự thiếu tôn trọng quyền cá nhân - một trong những nguyên tắc cốt lõi của đạo đức báo chí. Hoặc có thể không đến mức là xâm phạm đời tư nhưng đưa những thông tin về người nổi tiếng trên mạng xã hội kiểu “lá cải, rẻ tiền”, khai thác yếu tố tình dục, tâm linh mê tín dị đoan nửa hư nửa thực nhằm thu hút những thị hiếu không lành mạnh của người đọc cũng là một biểu hiện của đạo đức báo chí xuống cấp.
Bị chi phối bởi quảng cáo, lợi ích nhóm: Một số nhà báo lợi dụng nghề nghiệp để phục vụ mục đích cá nhân, bị doanh nghiệp thao túng thông tin hoặc nhận tài trợ để đưa tin có lợi, vi phạm nguyên tắc trung lập và khách quan. Ví như vụ thuốc giả, sữa giả ảnh hưởng đến người tiêu dùng và sức khỏe người dân.
Cũng có thể vì quan hệ cá nhân mà đưa tin thiên vị, thậm chí sai sự thật, làm mất uy tín của tập thể và cá nhân có liên quan. Một dạng khác là “ăn tiền” để không tố cáo cái sai, cái ác, hoặc gỡ bài theo yêu cầu của đối tượng phản ánh khi bài đã đăng (đối với báo điện tử) dẫn đến một số nhà báo đã phải vướng vào vòng lao lý.
Lạm dụng mạng xã hội: Trong thời đại số, một số phóng viên sử dụng tài khoản cá nhân để đăng tải thông tin thiếu kiểm chứng, chia sẻ tin bài không qua biên tập, từ đó làm lu mờ ranh giới giữa cá nhân và nghề nghiệp. Hoặc phổ biến hơn, đó là việc “đạo” thông tin từ các trang mạng hoặc các báo khác để xây dựng bài viết theo ý đồ riêng của mình.
Còn một khía cạnh nữa biểu hiện mặt tiêu cực của đạo đức nhà báo, đó là lạm dụng khai thác những mặt xấu của xã hội nhưng không mang tính xây dựng mà chỉ phản ánh một chiều, không muốn phản ánh mặt tốt, mặt tích cực, làm “đen hóa” thực trạng xã hội trên mặt báo, gây ra những ảnh hưởng không tốt đến dư luận chung, dễ để cho kẻ xấu lợi dụng, chống phá.
Lợi dụng danh nghĩa tòa báo, lợi dụng chương trình có ý nghĩa xã hội để trục lợi. Ví dụ điển hình là trường hợp ở Tạp chí Môi trường và Đô thị vừa qua, 45/48 nhà báo của tòa soạn bị khởi tố. Hoặc lợi dụng danh nghĩa nhà báo và quy định pháp luật để dọa nạt đối tượng, ép đối tượng phải chi tiền để không tố giác sai phạm trên báo…
Riêng đối với các nữ nhà báo, không phủ nhận họ có lợi thế về giới trong khai thác thông tin, tiếp cận đối tượng, nhưng với những nữ nhà báo không rèn luyện bản lĩnh của mình, thì chính lợi thế này lại là cạm bẫy đối với họ trong quá trình tác nghiệp. Nếu không có bản lĩnh giữ đạo đức nghề nghiệp, chính bản thân họ có thể bị lợi dụng, bị thao túng và tự đánh mất mình.
Ông Nguyễn Mạnh Tuấn, Phó Trưởng ban chuyên trách Ban Kiểm tra Hội Nhà báo Việt Nam nêu rõ: Các cấp Hội đã tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát, chú trọng việc bảo vệ quyền làm nghề hợp pháp của hội viên, quyền lợi chính đáng của hội viên nhà báo, nêu cao đạo đức nghề nghiệp. Đến nay, toàn quốc có 260/301 tổ chức hội có hội đồng xử lý vi phạm đạo đức người làm báo. 90 trường hợp nhà báo, hội viên, phóng viên đã vi phạm; trong đó, 75 trường hợp vi phạm pháp luật, 10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam. Đó thực sự mới chỉ là “tảng băng nổi” trong vấn đề vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Nguyên nhân của thực trạng
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những sai phạm trong đạo đức nghề nghiệp báo chí, trong đó nổi bật là:
Áp lực từ thị trường truyền thông hiện đại: Việc cạnh tranh gay gắt giữa các cơ quan báo chí, cùng xu hướng “độc giả thích tin nhanh, tin giật gân” khiến nhiều nhà báo dễ bị cuốn vào vòng xoáy của truyền thông câu view, hoặc bằng mọi cách, mọi giá để có được thông tin nhanh, chính xác.

Cũng có những nhà báo tận dụng ưu thế nghề nghiệp để trục lợi cho bản thân.
Thiếu nhận thức hoặc thiếu bản lĩnh nghề nghiệp: Một số nhà báo, đặc biệt là người mới vào nghề, chưa được đào tạo đầy đủ về đạo đức, chưa có kinh nghiệm làm nghề, chưa thấm nhuần vai trò xã hội của báo chí nên dễ vi phạm chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
Quản lý lỏng lẻo: Một số cơ quan báo chí chưa thực hiện tốt công tác giám sát, phản biện nội bộ, để xảy ra sai sót mà không có chế tài xử lý kịp thời.
Ảnh hưởng từ mạng xã hội: Sự phát triển của mạng xã hội khiến nhiều người nhầm lẫn giữa chức năng định hướng xã hội của báo chí và tự do ngôn luận cá nhân, làm suy giảm ranh giới giữa nghiệp vụ và “cái tôi” trong hành nghề. Nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng thì chính họ lại trở thành công cụ tuyên truyền cho những thế lực phản động, thù địch. Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến vi phạm lớn nhất về đạo đức của nhà báo cách mạng đã được nêu ra đầu tiên trong 10 điều quy định.
Giải pháp nâng cao đạo đức nhà báo
Để xây dựng một nền báo chí chuyên nghiệp, có trách nhiệm và được xã hội tin tưởng, cần có các giải pháp cần đồng bộ ở nhiều cấp độ:
Về đào tạo: Các trường đào tạo báo chí cần chú trọng giảng dạy đạo đức nghề nghiệp ngay từ đầu, kết hợp với tình huống thực tế và thảo luận chuyên đề. Đặc biệt, cần mời các nhà báo dày dạn kinh nghiệm tham gia giảng dạy và chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp.
Về các đơn vị báo chí: Các tòa soạn cần xây dựng quy trình kiểm soát thông tin, siết chặt khâu biên tập và trách nhiệm người chịu trách nhiệm nội dung. Việc xây dựng văn hóa toà soạn minh bạch, nhân văn cũng góp phần rèn luyện đạo đức cho đội ngũ phóng viên.
Về pháp lý và giám sát: Hội Nhà báo và cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí cần tăng cường thanh tra, có chế tài xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm đạo đức và quy định báo chí.
Về cá nhân nhà báo: Người làm báo cần tự giác rèn luyện, giữ gìn lương tâm trong sáng, luôn tự hỏi “mình viết cái này vì ai, để làm gì, phục vụ mục tiêu gì?”. Chỉ khi nhà báo tự tu dưỡng thì mới có thể giữ vững nghề báo theo đúng hướng.
Khai thác hiệu quả công nghệ: Sử dụng công nghệ để chống tin giả, truy vết nguồn tin và minh bạch hóa quy trình tác nghiệp cũng là một phần của đạo đức nghề nghiệp thời đại số.
Nhìn lại lịch sử vẻ vang và hào hùng của nền báo chí cách mạng Việt Nam chúng ta hãy cùng nhau gìn giữ và lan tỏa giá trị đạo đức nghề báo, để mỗi nhà báo luôn giữ cho mình “tâm sáng, lòng trong, bút sắc” và xây dựng nền báo chí Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh, chuyên nghiệp và nhân văn, xứng đáng với niềm tin của công chúng.