Thách thức khi mức sinh thay thế sụt giảm
(PNTĐ) - Chiều 23/9, Viện Xã hội học và Tâm lý học (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức hội thảo "Mức sinh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp chính sách".
Hội thảo nhằm trao đổi, thảo luận và công bố các kết quả nghiên cứu mới nhất về thực trạng mức sinh ở Việt Nam hiện nay, cũng như các yếu tố tác động đến chất lượng dân số ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời, đây cũng là diễn đàn để các học giả, nhà quản lý và hoạch định chính sách thảo luận về cơ sở lý luận, thực tiễn nhằm đưa ra được các giải pháp chính sách hiệu quả nhằm duy trì bền vững mức sinh, nâng cao chất lượng dân số thay thế phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam.

Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho biết, từ khi ban hành Pháp lệnh dân số năm 2003 đến nay, chính sách dân số của nước ta đã trải qua nhiều định hướng, từ "sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình" sang "sức khỏe sinh sản - chất lượng dân số" và từ 2016 đến nay là "dân số và phát triển". Tuy nhiên, việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TƯ "mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc chưa thực sự vững chắc, tổng tỷ suất sinh có xu hướng giảm dưới mức sinh thay thế; mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn còn cao".
Ở nhiều tỉnh, thành phố, đặc biệt là khu vực đô thị và các tỉnh có mức phát triển cao, tỷ suất sinh đã giảm xuống dưới mức sinh thay thế. Trái lại, ở một số vùng khó khăn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mức sinh vẫn duy trì ở mức cao, tạo nên sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng, miền. Ngoài ra, ở nước ta còn phải đối mặt với xu hướng già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng, mất cân bằng giới tính khi sinh, chất lượng dân số chưa cao…

“Mức sinh thấp kéo dài sẽ tác động trực tiếp, sâu sắc tới quy mô, cơ cấu dân số và để lại hệ luỵ như thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, đẩy nhanh tốc độ già hoá dân số và để lại nhiều hệ luỵ như thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, đẩy nhanh tốc độ già hoá dân số và gia tăng các dòng di cư. Ở nhiều nước phát triển đang phải sử dụng lao động nhập cư để bù đắp thiếu hụt lao động, đảm bảo nguồn nhân lực để phát triểnn kinh tế”, PGS.TS Nguyễn Đức Minh cho biết.
PGS.TS Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý học cũng. nhấn mạnh: Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, đặc biệt là việc kiểm soát tốc độ gia tăng dân số,… song bức tranh mức sinh ở Việt Nam hiện nay đang xuất hiện nhiều vấn đề bất cập, đặt ra những thách thức cho sự phát triển bền vững đất nước. Ở nhiều tỉnh, thành phố, mức sinh đã giảm xuống dưới mức thay thế, trong khi một số nơi vẫn cao hơn trung bình cả nước, tạo nên sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền.
“Xu hướng mức sinh thấp kéo dài dẫn đến suy giảm quy mô dân số trong trong lai, suy giảm nguồn nhân lực, đẩy nhanh quá trình già hoá dân số, gây áp lực đối với an sinh xã hội, phát triển kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng mức sinh để đề xuất các giải pháp chính sách phù hợp là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển dân số và nguồn nhân lực quốc gia nói riêng, sự phát triển bền vững đất nước nói chung trong bối cảnh mới”, PGS.TS Chu Văn Tuấn cho biết.


Bên cạnh đó, thực trạng tảo hôn và mang thai ở tuổi vị thành niên ở Việt Nam tăng cao. Theo số liệu từ Cục Dân số, kế hoạch hóa gia đình (2021) phụ nữ 20-24 tuổi có con ở tuổi chưa thành niên cả nước ở mức 8,2%, trong đó khu vực Tây Nguyên là 16,6% và Trung du miền núi phía bắc là 19,9%. Hệ lụy của việc mang thai ở tuổi vị thành niên sẽ dẫn đến tình trạng phá thai ở tuổi này tăng cao do việc tiếp cận và sử dụng các biện pháp tránh thai thấp. Ngoài ra, mang thai và sinh con ở tuổi vị thành niên sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng dân số khi được sinh ra cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe người mẹ.
Thứ ba, mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam tồn tại từ lâu và chưa có dấu hiệu giảm. Theo dữ liệu từ Cục Thống kê (2024), tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam là 113,6 trẻ em trai/ 100 trẻ em gái, tuy nhiên lại có sự khác biệt giữa nông thôn - đô thị và vùng địa lý, trong đó Đồng bằng sông Hồng có tỷ số giới tính cao nhất (114,4), tiếp theo là khu vực Trung du miền núi phía Bắc (112,4). Hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh gây ra tình trạng nạo phá thai để lựa chọn giới tính, tình trạng thừa nam thiếu nữ, bất bình đẳng giới và các vấn đề tệ nạn xã hội khác làm ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội.
Thứ tư, già hóa dân số đặt ra những thách thức nghiêm trọng về tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội, lao động, thiết kế cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh không lây nhiễm cần điều trị suốt đời như huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, sa sút trí tuệ. Già hóa dân số cũng làm cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, cơ cấu nghề nghiệp sẽ thay đổi, gánh nặng kinh tế cho người lao động trẻ cũng cao hơn...
Những thách thức này đòi hỏi phải có thêm các nghiên cứu thực tiễn để tìm ra giải pháp hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam, và nhất là yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Tại hội thảo, các nhà khoa học, các chuyên gia, nhà quản lý đến từ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, từ các cơ quan, bộ, ban ngành, các Viện nghiên cứu, trường đại học đã thảo luận, phân tích biến động mức sinh, kết hôn và sinh con ở tuổi vị thành niên, và già hóa dân số từ năm 2019 đến nay; các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân khẩu học tác động đến các vấn đề dân số; kinh nghiệm khuyến sinh của các nước và đánh giá các chính sách hiện hành của Việt Nam; đồng thời đưa ra các khuyến nghị và giải pháp chính sách khả thi nhằm duy trì bền vững mức sinh và nâng cao chất lượng dân số.
\