Xây dựng chính quyền số, chính phủ số: Kiến tạo để phát triển
Kỳ cuối: Để xây dựng thành công Chính phủ số
(PNTĐ) -Phát triển chính phủ số một cách tổng thể, toàn diện, phát huy kết quả đạt được, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, có giải pháp, cách làm đột phá, mang tính khác biệt, để cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu phát triển chính phủ điện tử và hình thành chính phủ số vào năm 2025.

Đó là một trong những quan điểm trong Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Mục tiêu đến năm 2025, cơ quan Nhà nước cung cấp các dịch vụ chất lượng phục vụ xã hội trên nguyên tắc đảm bảo chất lượng dịch vụ, giảm chi phí, tăng năng suất lao động xã hội một cách chủ động, kịp thời, đáp ứng nhu cầu của xã hội, phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Chuyển đổi số: Mỗi quốc gia đều phải đi con đường của mình
Đại hội XIII của Đảng đã xác định chuyển đổi xanh và chuyển đổi số (CĐS) là 2 chuyển đổi quan trọng nhất để Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao, hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc vào năm 2045. Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 6 tháng đầu năm 2023 về CĐS quốc gia và Đề án phát triển dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ CĐS quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06) mới đây, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Phó Chủ tịch Ủy ban quốc gia về CĐS Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, chúng ta đã đi được 1/2 chặng đường của nhiệm kỳ XIII. Nhận thức về CĐS đã đến được mọi cấp chính quyền và người dân. Thể chế số đã cơ bản được hoàn thiện, nhiều luật, nghị định, chiến lược Quốc gia về CĐS đã được ban hành. Hạ tầng viễn thông và hạ tầng dữ liệu đã được coi là hạ tầng thiết yếu quốc gia và đang được đặc biệt chú trọng phát triển. Các cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia được quan tâm đầu tư và phát huy hiệu quả. An toàn, an ninh mạng được coi là điều kiện cần để thực hiện chuyển đổi số. Đào tạo số, bao gồm đại học số, cao đẳng dạy nghề số, đào tạo kỹ năng số online cho người dân là lời giải cho nhân lực số Việt Nam.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải đi đều 2 chân: Một là, phổ cập nhanh cái cơ bản thông qua các nền tảng số dùng chung toàn quốc. Hai là, đi nhanh về cái mới thông qua một số đầu tàu. Từ cái mới đã được các đầu tầu triển khai thành công thì nhanh chóng biến thành cái cơ bản để phổ cập. Đây là công việc quan trọng của quản lý Nhà nước. CĐS là toàn dân và toàn diện, tức là phải phổ cập. Từ đầu tầu rồi phải đến phổ cập. Đầu tầu mà không dẫn đến phổ cập thì không tạo ra sự thay đổi, không tạo ra sự chuyển đổi và sẽ không có CĐS.
Nghị quyết Trung ương 6 khoá XIII nhấn mạnh, CĐS là một phương thức phát triển mới giúp đẩy nhanh, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa là CĐS lĩnh vực chế biến, chế tạo và sản xuất. Hiện đại hóa là CĐS toàn diện, cả kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị và môi trường. Nhưng trọng tâm của CĐS vẫn là nhắm vào tăng trưởng kinh tế. Dự kiến hết năm nay, kinh tế số của Việt Nam sẽ chiếm 17% GDP, và vẫn tiếp tục tăng trưởng trên 20%/năm. Kinh tế số của Việt Nam sẽ trên 20% GDP vào năm 2024, tức là chúng ta sẽ về đích sớm 1 năm so với mục tiêu Đại hội XIII đặt ra - Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.
Xem chuyển đổi số là câu chuyện chung
Ông Lê Nguyễn Trường Giang, Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số cho rằng, CĐS không phải là một phong trào, và Chính phủ phải nhận thức CĐS là một bước đi, chủ trương, đường lối chính sách đúng đắn, tiên phong. Chúng ta không thể không thực hiện chuyển đổi số để đảm bảo tham gia cuộc cách mạng lần thứ 4.
- CĐS không phải là câu chuyện của riêng một đơn vị nào. CĐS là câu chuyện chung và nó chỉ trở thành chung khi chúng ta làm cho nó có những động lực để mọi người cùng chung sức; chứ không phải những mệnh lệnh hành chính, những chỉ thị, những tư lợi, những độc đoán từ một vài đơn vị nào đó áp đặt lên tất cả. Muốn làm tốt, cách tốt nhất là mở rộng để tất cả cùng làm, cùng có lợi, cùng thành công - ông Giang cho biết.
Theo Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số, chúng ta đang khuyến khích những nền tảng mở, dữ liệu mở, khuyến khích nền tảng chia sẻ trong kinh tế, dữ liệu và những cơ hội - thúc đẩy tiến trình CĐS. Do vậy không phải là kiến tạo nên những cơ chế đóng, định khuôn và những thước đo phụ thuộc bởi một hay một số tổ chức nhất định, mà phải tạo ra những cơ chế mở, cách thức mở.
Ông Giang cho rằng CĐS là phương tiện, mang tính tiến trình, không phải mục tiêu, không thấy được rõ lợi ích thì không làm, hoặc làm đối phó, làm phong trào. Nếu chúng ta không hiểu rõ được bản chất thì đụng đâu làm đó; không biết cách hành động cho đúng thì sẽ nghĩ gì làm nấy; không hiểu được mình thực sự muốn gì thì sẽ nhìn xung quanh làm theo; không nắm được làm dựa vào đâu thì sẽ làm đại; không hiểu được phương cách thì sẽ vừa làm vừa tính.
Việc đào tạo về CĐS cũng cần hướng tới việc định hình ra những tiêu chí, tiêu chuẩn và những chuẩn mực về chất lượng, tạo điều kiện cho tất cả các bên có năng lực đều có thể tham gia vào tiến trình này. Thay vì khuôn định nó trong những môi trường đóng, tạo nên những vùng hạn chế, không huy động được trí tuệ và sức mạnh của tập thể. Chuyên gia tư vấn về CĐS, chuyên gia đào tạo, chuyên gia chuyên trách về CĐS đang là điểm trống, điểm yếu của chúng ta hiện nay.
Mang lại giá trị thiết thực cho người dân, doanh nghiệp
Thước đo của chính quyền số, chính phủ số chính là số lượng thủ tục hành chính được cắt giảm; số dịch vụ mới được cung cấp thêm; sự tham gia của tổ chức ngoài nhà nước vào cung cấp dịch vụ, mở dữ liệu và cung cấp dữ liệu mở và các vấn đề lớn của quốc gia được giải quyết tốt hơn thông qua sử dụng dữ liệu và công nghệ số.
Khi chúng ta xây dựng thành công chính quyền số, chính phủ số thì sẽ phát triển được chính phủ thông minh. Ở mức độ phát triển này, chính phủ kiến tạo sự phát triển bền vững, cung cấp các dịch vụ đổi mới, sáng tạo, có tính dự báo trước cho người dân và doanh nghiệp dựa trên các công nghệ số và mô hình cung cấp dịch vụ mới, được tối ưu hoá.
Lấy từ thực tiễn câu chuyện CĐS và xây dựng Thành phố thông minh của Hà Nội để thấy được những giá trị thiết thực mang lại cho chính quyền, người dân và doanh nghiệp.
Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông (TTTT) Hà Nội Nguyễn Việt Hùng cho biết, Hà Nội đã xây dựng, ban hành các quy chế quản lý, vận hành, khai thác các hệ thống thông tin/cơ sở dữ liệu của Thành phố. Thành phố đã ban hành quy định về mức phí, lệ phí khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến với mức thu bằng “0” áp dụng cho các tổ chức, cá nhân thực hiện nộp hồ sơ thực hiện các dịch vụ công theo hình thức trực tuyến, thực hiện đến hết ngày 31/12/2025. Hà Nội hiện là địa phương đầu tiên trong cả nước quy định mức thu này. Số tiền dự kiến ngân sách Thành phố không thu khi thực hiện nội dung này khoảng 37 tỷ đồng.
Theo Giám đốc Sở TTTT Nguyễn Việt Hùng, một số quận, huyện đã nhận thức vai trò của CĐS và chủ động trong việc đề xuất, triển khai các nhiệm vụ về CĐS. Các Sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã và xã, phường, thị trấn tiếp tục duy trì vận hành khai thác Trang/Cổng thông tin điện tử phục vụ yêu cầu cung cấp thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp theo quy định. Việc khai thuế điện tử đã được áp dụng phổ biến với tỷ lệ 99,5% doanh nghiệp đang hoạt động khai thuế qua mạng; trên 99,1% doanh nghiệp thực hiện nộp thuế điện tử. 100% hồ sơ hoàn thuế được xử lý điện tử. Đến nay, Hà Nội đã cấp được 12.188 chữ ký số cho cán bộ, công chức thuộc Thành phố.
Nhờ làm tốt công tác cải cách hành chính (CCHC) và CĐS, Hà Nội đã có những tiến bộ vượt bậc. Chủ tịch UBND TP Hà Nội Trần Sỹ Thanh cho biết, công tác CCHC của Thành phố có nhiều chuyển biến, chỉ số CCHC của Thành phố luôn đứng trong top 10 tỉnh, thành phố qua nhiều năm; đặc biệt có sự thay đổi vượt bậc trong năm 2022 (đứng vị trí số 3/63 tỉnh thành). Chỉ số CĐS cấp tỉnh của Hà Nội tăng 16 bậc so với năm 2021.
Theo Chủ tịch Trần Sỹ Thanh, trong thời gian tới, Hà Nội sẽ tiếp tục huy động mọi nguồn lực, sự tham gia của cả hệ thống chính trị, người dân và cộng đồng doanh nghiệp tổ chức triển khai 3 trụ cột chính: CCHC - Chuyển đổi số - Đề án 06. Và phải lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể, làm mục tiêu, động lực trong quá trình thực hiện 3 trụ cột đó.