Một trưa ở phố
Thoáng cái, đã trưa, sau tiếng còi tan tầm, những buổi trưa của Hà Nội một thời bao cấp yên tĩnh bằng một vẻ thật riêng.
Có lúc tôi cứ ước ao, biết đâu sau này Hà Nội sẽ có một khu bảo tồn, hay một cái công viên để thêm một lần những người trung tuổi được trải nghiệm lại cảm giác ấy.
Trưa, ở miền núi là khi chỉ có tiếng chào mào lảnh lót trên ngọn cây. Một nhịp sống nông nghiệp yên ả, thuần hậu nhưng cũng đơn giản và nhàm chán. Đã một tuần kể từ khi xuống Hà Nội, tôi vẫn không thể chợp mắt được. Với một đứa trẻ, trưa ở phố hấp dẫn quá, trưa mời gọi tôi bằng muôn vàn háo hức. Không thể bỏ phí một thời khắc như thế.
Ảnh minh họa
Ban đầu, niềm vui của tôi là được ngồi ở dưới gốc xà cừ ngắm phố. Tôi mong đợi những chiếc xe máy được mang từ các nước trong khối Xã hội chủ nghĩa đi qua. Lâu lâu, có khi đến mươi phút, mới thấy một chiếc “Hon-đa” nào đó xuất hiện. Khi đó “Hon-đa” là một danh từ chung, chứ nào đã hiểu đó là một thương hiệu nổi tiếng thế giới. Chiếc nào thân màu xanh, chiếc nào màu đỏ, có gương hay không có, lũ trẻ ở phố này có thể kể vanh vách đến tận khi chìm vào giấc ngủ trưa hè.
Người ta thường mơ đến những thứ chưa có nhưng chẳng dại gì mơ nếu nó quá xa vời. Không sao, tôi có thể gửi giấc mơ ấy vào những cái xe ông Huỳnh đầu ngõ làm bằng gỗ. Ông có một con dao. Dao ở phố làm gì có đá mài, cùn thì liếc vào chôn bát. Ông liếc rất khéo, nhìn ông liếc đã mê, ông dùng dao cắt tiện những mẩu gỗ thành cái xe rồi sơn màu y như thật. Hà Nội những năm đó có những người nghệ nhân kỳ công và khéo tay. Lũ trẻ, những đứa trẻ sau này không hề ngờ rằng lại được sở hữu những chiếc xe đắt tiền nhanh đến thế.
Hà Nội của những năm tháng ấy rất hay mất điện. Sau này tôi hiểu ra khi đó đất nước chưa có những nhà máy điện công suất lớn. Tôi nhớ hồi ấy ở Đống Đa vẫn nhiều ao chuôm, mương và hồ. Ở nhà sẵn lưỡi câu nhưng lại thiếu cần. Tôi phải đợi khi bà ngoại ngủ say, lén ra sau nhà, nhón cái que trúc bà hay gác phơi chiếu mang đi làm cần câu. Hí hửng ra đến đây, tôi mới vỡ lẽ, trẻ con Hà Nội đâu có câu cá về ăn như trên nhà mình. Chúng hò nhau vây bắt những con cá cờ bé như ngón tay, đuôi xanh đỏ rồi bỏ vào những chiếc bình thí nghiệm hình tròn có cái cổ cao ngỏng. Đêm, khi ánh đèn hắt qua những ô cửa sổ, những cái đuôi cờ lấp lánh. Lần nào về qua khung cửa sổ ấy tôi cũng ước có được một chiếc bình chứ không phải là chiếc ti-vi màu 14 inch đặt trong kia.
Ảnh minh họa
Trưa Hà Nội văng vẳng tiếng bầy chim sẻ chíu chít gọi nhau trên mái ngói thâm nâu. Này là lăng Khải Định, này là tấm thân rồng uống lượn bằng đá xanh xứ Thanh. Đàn sẻ đã quen với cái bể nước công cộng, có những hạt tấm lọt từ rá vo gạo rớt xuống, đã quen căn gác của bà cụ già mái tóc trắng như cước tay cầm cuốn Kiều đã bóng mồ hôi tay. Cụ lảy Kiều bằng tiếng Hà Nội xưa nhỏ nhẻ, sáng và ấm. Những câu Kiều tôi nghe không tường tận chữ nghĩa ước lệ, tượng trưng nhưng mơ hồ mường tượng có một chốn kinh thành sầm uất.
Thế rồi, những buổi trưa Hà Nội ấy dần qua đi. Tôi xa Hà Nội mà đâu biết rằng mình đã mãi xa một thời đơn sơ mà lắng sâu đến thế. Sau này tôi về Hà Nội để học đại học rồi đi làm nhưng không bao giờ tìm lại được những buổi trưa như thế. Nhưng, mỗi khi qua những con phố, con ngõ vẫn bâng khuâng nhớ kỉ niệm xưa…
BÙI VIỆT PHƯƠNG