Phụ nữ Việt Nam phát huy tâm huyết, trí tuệ, tài năng, khát vọng cống hiến vì sự thịnh vượng của đất nước
(PNTĐ) - "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mở ra vận hội chưa từng có để nhân dân Việt Nam, để Phụ nữ Việt Nam có thể phát huy cao nhất tâm huyết, trí tuệ, tài năng, khát vọng cống hiến vì sự thịnh vượng của đất nước, vì hạnh phúc của gia đình và cá nhân mình".
Báo Phụ nữ Thủ đô xin trân trọng giới thiệu bài viết "Một số vấn đề chung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" của GS. TS. Phùng Hữu Phú Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyên Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, Nguyên PCT Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu tham luận tại Hội thảo "Phát huy vai trò của phụ nữ trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" do Hội LHPN Việt Nam và Tạp chí Cộng sản tổ chức chiều ngày 26/12/2024.
Tổng Bí thư Tô Lâm trong nhiều bài viết, bài phát biểu quan trọng đã đề cập đến kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và thống nhất cao với định hướng của Tổng Bí thư, xem đây là một định hướng chiến lược lâu dài ở tầm thời đại về sự phát triển của đất nước. Tổng hợp, hệ thống những ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, có thể khái quát một số vấn đề cơ bản về kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
1. Kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc Việt Nam khởi đầu từ Đại hội lần thứ XIV của Đảng là sự phát triển hợp qui luật của cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại.
Kỷ nguyên là một khoảng thời gian dài hoặc tương đối dài phản ánh sự phát triển đột phá, tạo nên sự biến đổi toàn diện về chất lượng của một lĩnh vực hoặc của một quốc gia, và rộng hơn, của nhân loại.
Gần 95 năm tiến hành cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân tộc Việt Nam bước vào thời đại Hồ Chí Minh, kiến tạo thành công hai kỷ nguyên vẻ vang. Đầu tiên là Kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội (1930 – 1975 ), khởi đầu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, dẫn đến thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945, những chiến thắng vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược của thực dân, đế quốc ( 1946-1975 ) và những thành tựu ban đầu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc ( 1954 – 1975 ).
Thứ hai là Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới, phát triển ( 1975 – 2025). Mùa Xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng, cả nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội đã tạo ra thế và lực mới, vận hội mới để năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới và qua gần 40 năm đổi mới, đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc, cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao.
Những thành tựu vĩ đại mà toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng đạt được qua hai kỷ nguyên 1930 – 1975, 1975 – 2025 đã tạo những tiền đề vững chắc, để Đại hội lần thứ XIV của Đảng – thời điểm hội tụ đầy đủ những nhân tố khách quan, chủ quan, trong nước, quốc tế, thiên thời, địa lợi, nhân hòa sau tròn 40 năm đổi mới, để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên thứ ba: Kỷ nguyên vươn mính của dân tộc – kỷ nguyên phồn vinh, hạnh phúc.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên Việt Nam phát triển bứt phá toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực; hiện thực hóa tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021); đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 – kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 – kỷ niệm 100 năm thành lập Nhà nước cách mạng; phấn đấu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc; tiến kịp, tiến cùng thời đại, sánh vai cùng các cường quốc năm châu; đóng góp tích cực, xứng đáng vào hòa bình, thịnh vượng, tiến bộ của nhân loại (Báo Nhân dân, Cơ sở định vị mục tiêu phát triển và định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, 2024).
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là sự phát triển tiếp nối hợp qui luật hai kỷ nguyên trước, phản ánh qui luật cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội và phù hợp với sự phát triển biện chứng của mục tiêu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là phù hợp với những thời cơ, vận hội mới chưa từng có của thời đại, khi mà toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, dù còn gặp nhiều trở lực, nhưng là một xu thế ngày càng sâu rộng, không thể đảo ngược; khi mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp sau tạo ra cơ hội cho mọi quốc gia thích ứng, tận dụng tốt những thành tựu của nó có thể phát triển bứt phá với tốc độ bất ngờ và những thành công thần kỳ. Đảng ta đã sớm nhận thức đúng, chủ động, tích cực nắm bắt vận hội này, xem đó là chìa khóa, là đòn bẩy đưa đất nước phát triển tăng tốc, cất cánh. Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là thuận theo xu hướng thời đại.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt nam là kỷ nguyên tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, phát triển nhanh, mạnh, bền vững.
2. Những yêu cầu khách quan, bức thiết đặt ra khi bước vào kỷ nguyên mới
2.1 Đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển, thống nhất cao về tư tưởng, quyết tâm hành động là khâu mở đường đi vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam diễn ra song hành với kỷ nguyên số, kỷ nguyên đổi mới sáng tạo theo nguyên lý “ không có gì là không thể ”. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo đang và sẽ làm đảo lộn phương cách suy nghĩ, làm ăn, sinh hoạt của các quốc gia, cộng đồng, con người. Một lần nữa thực tiễn yêu cầu và đòi hỏi chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển, phải có cách tiếp cận mới, khoa học hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội chủ nghĩa; về phương thức lãnh đạo , cầm quyền của Đảng…phù hợp với kỷ nguyên số; làm cơ sở định hướng đột phá phát triển các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Chúng ta kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đướng lối đổi mới của Đảng theo tinh thần không ngừng sáng tạo, đồng thời cởi mở, cầu thị tiếp thu trên tinh thần khoa học những thành tựu tư tưởng, lý luận tiến bộ của nhân loai để tư duy của chúng ta luôn tươi mới, mang hơi thở của thời đại, tiến kịp, tiến cùng thời đại (Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, 2021).
Trên cơ sở tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về tư duy, phải thống nhất cao về tư tưởng, và quyết tâm hành động, ý Đảng lòng dân, triệu người như một, đồng tâm nhất trí tiến bước vào kỷ nguyên mới. Đây thật sự là khâu mở đường có ý nghĩa cách mạng trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2.2 Quyết liệt khắc phục các điểm nghẽn về thể chế, về tổ chức bộ máy, khai phóng đổi mới sáng tạo và mọi tiềm năng phát triển
Khắc phục điểm nghẽn về thể chế
Tư duy phát triển mới của Đảng muốn đi vào cuộc sống phải được thể chế hóa bằng hiến pháp, pháp luật, cơ chế, chính sách, muốn vậy, phải đổi mới căn bản tư duy, phương pháp xây dựng, thực hành thể chế theo tinh thần thượng tôn pháp luật, phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước phục vụ công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc làm mục đích xuyên suốt.
Tổng rà soát, khắc phục những chồng chéo, mâu thuẫn, những kẽ hở về thể chế đang là điểm nghẽn lớn của sự phát triển; loại bỏ những thể chế đã bị thực tiễn vượt qua; bổ sung những thế chế mới phù hợp, bền vững, có giá trị lâu dài để phát huy cao nhất các nguồn lực, động lực trong nước và nước ngoài, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy cuộc cách mạng chuyển đổi số, thu hút, phát huy nhân tài …
Vận hành thể chế theo tinh thần phát huy tốt nhất vai trò, tính chủ động, năng động của các chủ thể; gắn bó chặt chẽ và phục vụ thiết thực yêu cầu của thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo tính hợp lý và sức mạnh của thể chế.
Thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới (Báo Nhân dân, Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị quán triệt, triển khai tổng kết việc thưc hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và một số nội dung quan trọng, 2024).
Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đóng vai trò nòng cốt trong quá trình kiến tạo kỷ nguyên mới. Phải kiên quyết, tích cực tiến hành cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Gọi là cuộc cách mạng vì phải thay đổi cơ bản nhận thức, hiểu đúng bản chất, tính chất của mô hình thiết chế chính trị trong điều kiện một đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo, cầm quyền; xác định đúng để thiết kế đúng mô hình chính trị tổng thể và phương thức vận hành tổng quát “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ”.
Từ những nhận thức nền tảng này mà tổng rà soát, tiến hành điều chỉnh đồng bộ, nhất quán, tổng thể, triệt để mang tính cách mạng hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm tinh gọn, thống nhất, thông suốt, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
Sắp xếp tổ chức bộ máy phải gắn liền với cơ cấu lại nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, phát huy cao nhất năng lực, tâm huyết, khát vọng cống hiến của các thành viên trong hệ thống tổ chức. Bố trí công việc đúng sở trường của cán bộ, công chức theo vị trí việc làm; chọn đúng người đứng đầu có tâm, có tầm; có cơ chế, chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ, công chức, nhất là những người thực đức, thực tài; xây dựng môi trường chính trị dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, nhân văn để nuôi dưỡng, phát huy tài năng…- đó chính là cái đích, là linh hồn của cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy.
2.3 Đẩy mạnh cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo đòn bẩy đưa đất nước cất cánh, đẩy nhanh tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta (Vũ Văn Phúc, 2024)
Để khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, trên thế giới, đưa đất nước vươn mình phát triển, tiến kịp, tiến cùng thời đại, chúng ta không có con đường nào khác là phải triển khai sâu rộng cuộc cách mạng chuyển đổi số; tận dụng phát huy hiệu quả những thành tựu đột biến của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cần tiến hành đồng thời việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, triển khai công nghệ cao, nhất là công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, ưu tiên những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế gắn với việc phổ cập, đào tạo nguồn nhân lực số, phát triển mạnh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối, đặc biệt là hạ tầng số.
Thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các mô hình, phương thức sản xuất kinh doanh thích ứng với thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển mạnh lực lượng sản xuất số, thực sự đưa khoa học, công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đồng thời điều chỉnh, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với lực lượng sản xuất số, hoàn thiện hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội chủ nghĩa. Đây chính là nhân tố quyết định để Việt Nam có thể sớm hoàn thành bước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đi nhanh vào công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội.
2.4 Cần kiệm, chống lãng phí, sử dụng tối ưu các nguồn lực; phát huy tối đa các động lực, nhất là sức mạnh của toàn dân, toàn quân, của con người Việt Nam để phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam có nguồn lực đất đai, tài nguyên, nhân lực và những nguồn lực vô hình kết tinh từ giá trị văn hóa, lịch sử, từ lợi thế địa chính trị, địa kinh tế…rất phong phú, giàu có, tiềm tàng. Chính những nguồn lực to lớn này đã góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu vĩ đại của công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan, khách quan, nguồn lực còn rất tiềm tàng của đất nước chưa được phát huy tốt; nhiều nguồn lực còn bị thất thoát, phí phạm, sử dụng kém hiệu quả; năng lực trí tuệ của con người Việt Nam và lợi thế của đất nước chưa được phát huy đúng tầm. Kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội trong việc giữ gìn, bảo vệ, nuôi dưỡng, sử dụng tối ưu các nguồn lực của đất nước. Nguồn lực đất đai, tài nguyên, tài chính, thời gian, nhân lực, trong nước, ngoài nước… phải được quí trọng, giữ gìn, bồi đắp, sử dụng hiệu quả nhất để tạo ra của cải vật chất.
Tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát, cần kiệm xây dựng đất nước phải trở thành quốc sách; thành phong trào xã hội rộng lớn, thành ý thức, tình cảm, việc làm tự giác của cả cộng đồng, của mỗi người Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Chống lãng phí gắn với chống tham nhũng, tiêu cực phải trở thành nội dung chủ yếu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; chống lãng phí, cần, kiệm, liêm, chính phải trở thành nhiệm vụ chính trị, thành chuẩn mực đạo đức của các cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần khai mở mạnh mẽ các động lực phát triển – động lực từ lợi ích; từ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; từ giải phóng sức sản xuất…, trong đó quan trọng nhất là phát huy sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc văn hiến, anh hùng; sức mạnh yêu nước, tự tôn, tự chủ, tự lực, tự cường của toàn dân, trong đó có lực lượng rất hùng hậu của phụ nữ Việt Nam; sức mạnh của lực lượng vũ trang anh hùng, bách chiến, bách thắng; sức mạnh và khát vọng cống hiến của con người Việt Nam cần cù, thông minh, sáng tạo trên nền tảng truyền thống lịch sử, văn hóa Việt Nam đặc sắc.
Đây là những chủ thể đóng vai trò trung tâm của công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới; lực lượng đóng vai trò quyết định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trình độ cao, chất lượng cao, có sức cạnh tranh và tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất, giá trị toàn cầu; xây dựng nền quốc phòng, an ninh hiện đại có năng lực bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Chăm lo bồi dưỡng sức dân; chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang chính qui, tinh nhuệ, hiện đại; chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện; lấy ấm no, hạnh phúc của nhân dân, của con người làm mục tiêu hàng đầu – đó chính là thượng sách kiến tạo kỷ nguyên mới.
2.5 Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy sức mạnh mềm Việt Nam, nâng tầm đối ngoại, ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Gắn vận mệnh của quốc gia, dân tộc với vận mệnh chung của nhân loại. Nắm bắt, khai thác những xu hướng tiến bộ, những thành tựu quản trị tiên tiến, những công nghệ hiện đại của thế giới làm tăng sức mạnh nội sinh của dân tộc. Phát huy lợi thế của nước đi sau, đi tắt, đón đầu, thực hiện hiệu quả những tiêu chí của quốc gia phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, tiến kịp, tiến cùng thời đại, tiến lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chính sách ngoại giao hòa bình, chính nghĩa, gia tăng sức mạnh mềm Việt Nam trong hệ giá trị toàn cầu. Nâng tầm ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Mở rộng, đưa các quan hệ quốc tế vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả; chủ động, tích cực tham gia xây dựng các định chế quốc tế và tham gia giải quyết các vấn đề quan trọng tầm khu vực, quốc tế; nâng vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam lên tầm mức mới tương xứng với thế và lực của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình.
2.6 Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch vững mạnh toàn diện là nhân tố hàng đầu quyết định thành công của công cuộc kiến tạo kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Là người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc kiến tạo kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng gánh trên vai sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trọng trách rất nặng nề. Lịch sử đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền; xây dựng Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh, thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, của thời đại, xứng đáng là người cầm lái vĩ đại đưa dân tộc đến phồn vinh, hạnh phúc.
Nhân dân đặt niềm tin và kỳ vọng Đảng và hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo thực sự trong sạch,vững mạnh toàn diện: bản lĩnh về chính trị, thống nhất về tư tưởng, cao về văn hóa, đẹp về đạo đức, khoa học về tổ chức, tiêu biểu về cán bộ. Nhân dân mong muốn và đòi hỏi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược, thực sự có đức có tài, biết lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, biết dĩ công vi thượng, có năng lực thiết kế, truyền cảm hứng và làm gương để Nhân dân noi theo trên cuộc hành trình kiến tạo kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mở ra vận hội chưa từng có để nhân dân Việt Nam, để Phụ nữ Việt Nam có thể phát huy cao nhất tâm huyết, trí tuệ, tài năng, khát vọng cống hiến vì sự thịnh vượng của đất nước, vì hạnh phúc của gia đình và cá nhân mình. Trong kỷ nguyên mới, vai trò của Hội Liên hiệp phục nữ Việt Nam càng quan trọng hơn và có điều kiện để phát huy mạnh mẽ, hiệu quả hơn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng. (2021). Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Dư luận trong nước và quốc tế về bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
2. Báo Nhân dân. (2024, 11 1). Cơ sở định vị mục tiêu phát triển và định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Báo Nhân dân (25193), 1-2. Được truy lục từ https://nhandan.vn/bao-nhan-dan-so-25193-post842596.html
3. Báo Nhân dân. (2024, 12 2). Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị quán triệt, triển khai tổng kết việc thưc hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và một số nội dung quan trọng. Báo Nhân dân (25224), 1-2. Được truy lục từ https://nhandan.vn/nhan-dan-hang-ngay-so-25224-post848008.html
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Tập 1). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
5. Vũ Văn Phúc. (2024, 9 12). Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương. Được truy lục từ Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương: https://tuyengiao.vn/chuyen-doi-so-phai-thuc-su-la-mot-cuoc-cach-mang-dua-dat-nuoc-vuon-minh-vuot-bac-trong-ky-nguyen-moi-156371