Quốc hội thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp
(PNTĐ) - Ngày14/6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Theo đó, Luật đã cắt giảm 7/24 (khoảng gần 30%) thủ tục, giảm chi phí, thời gian tuân thủ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Luật đã bám sát các nguyên tắc không can thiệp trực tiếp và can thiệp sâu
Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/8/2025. Luật này cơ bản kế thừa những quy định đã được áp dụng ổn định trong thực tiễn và bổ sung, đồng thời hoàn thiện quy định để giải quyết bất cập, vướng mắc của Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2015 (Luật số 69).

Theo báo cáo giải trình, tiếp thu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã quy định cụ thể các đối tượng áp dụng, gồm: Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ; cơ quan được giao thực hiện quyền, nghĩa vụ đại diện chủ sở hữu; người đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; người đại diện phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Quy định này đã bảo đảm bao quát cả việc quản lý và đầu tư vốn Nhà nước theo phần vốn đầu tư tại doanh nghiệp có từ 50% vốn Nhà nước trở xuống theo đúng Kết luận số 4348/TB-TTKQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “đảm bảo nguyên tắc xuyên suốt, ở đâu có vốn của Nhà nước thì ở đó phải có quản lý của Nhà nước với biện pháp, mức độ phù hợp, kể cả ở các doanh nghiệp vốn nhà nước chiếm tỷ lệ dưới 50% hoặc các doanh nghiệp mà doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư, góp vốn”.
Theo đánh giá của các đại biểu Quốc hội, Luật đã bám sát các nguyên tắc không can thiệp trực tiếp và can thiệp sâu; phân cấp, phân quyền cho doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp nhà nước được chủ động hơn trong quá trình quản lý và đầu tư.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật trước khi thông qua đã được chỉnh lý để thể hiện rõ quyền, trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc: quyết định hoặc điều chỉnh chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp; quyết định huy động vốn; quyết định bảo lãnh cho công ty do doanh nghiệp nắm giữ trên 50% vốn điều lệ vay vốn với tổng giá trị các khoản bảo lãnh không vượt quá giá trị vốn góp thực tế của doanh nghiệp tại thời điếm bảo lãnh.

Quy định như trên, đã thay đổi căn bản so với Luật số 69, phân quyền cho doanh nghiệp ban hành chiến lược kinh doanh 5 năm và kế hoạch kinh doanh hàng năm, tạo sự chủ động trong điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khắc phục tình trạng chậm trễ trong phê duyệt chiến lược và kế hoạch hiện nay.
Luật đã cắt giảm 7/24 (khoảng gần 30%) thủ tục, giảm chi phí
Doanh nghiệp cũng được quyết định cho công ty do doanh nghiệp nắm giữ trên 50% vốn điều lệ vay vốn với tổng giá trị các khoản cho vay đối với từng công ty không vượt quá giá trị vốn góp thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm cho vay; quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định đầu tư theo các hình thức đầu tư quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật khác có liên quan; quyết định tiền lương, thù lao, tiền thưởng...

Quy định tại dự thảo Luật thể hiện sự cân bằng giữa việc tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp với việc bảo đảm vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu ở mức độ phù hợp.
Đồng thời, Luật đã giảm bớt một số thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước với cơ quan, người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và doanh nghiệp, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp... Theo báo cáo của Chính phủ, Luật đã cắt giảm 7/24 (khoảng gần 30%) thủ tục, giảm chi phí, thời gian tuân thủ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, quản lý vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này tại Điều 56 về quản lý và đầu tư vốn tại các doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (như Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Liên minh Hợp tác xã...).
Luật không quy định cụ thể lĩnh vực hạn chế đầu tư, kinh doanh đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước, nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 12-NQ/TW, qua đó tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp mà thực hiện quản lý trên cơ sở phần vốn góp, bảo đảm nguyên tắc doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, đại diện chủ sở hữu nhà nước vẫn có quyền định hướng đối với hoạt động và mục tiêu phát triển của doanh nghiệp thông qua Điều lệ tổ chức và hoạt động, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Đồng thời, bổ sung quy định giao Chính phủ quy định các trường hợp doanh nghiệp không được đầu tư khác trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo tính linh hoạt trong điều hành.