Di sản sống trong dòng chảy hiện đại: Khi giá trị truyền thống trở thành động lực sáng tạo
(PNTĐ) - Chiều 8/11, không gian Hồ Văn – Văn Miếu Quốc Tử Giám trở nên đặc biệt sôi động khi hội thảo “Ứng dụng di sản trong sáng tạo” diễn ra, thu hút đông đảo người làm văn hóa, nghệ nhân cùng các bạn trẻ yêu sáng tạo.
Đây là một trong những hoạt động trọng điểm của Festival Thăng Long – Hà Nội 2025, nơi câu chuyện về đưa di sản ra khỏi khuôn khổ bảo tồn truyền thống để bước vào đời sống đương đại được phân tích sâu sắc và đa chiều.
Các diễn giả dự hội thảo đều đồng thuận rằng Việt Nam sở hữu kho tàng di sản văn hóa phi vật thể vô cùng phong phú, là kết tinh của lịch sử lao động, tín ngưỡng, nghệ thuật qua nhiều thế hệ. Song, trong làn sóng phát triển công nghiệp văn hóa, di sản không chỉ được trưng bày trong bảo tàng hay sân khấu mà còn trở thành nguồn chất liệu giàu tiềm năng cho những hình thức sáng tạo mới mẻ. Chính quá trình “chuyển động” ấy đã kéo theo không ít thách thức, đặc biệt về nguy cơ thương mại hóa giá trị truyền thống, khoảng trống đạo đức giữa nhà sáng tạo và nghệ nhân cũng như sự mập mờ về quyền sở hữu trí tuệ.

Phát biểu tại hội thảo, Tiến sĩ Mai Thị Hạnh – Phó trưởng Khoa Công nghiệp Văn hóa và Di sản, Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật (ĐHQGHN) – nhấn mạnh cần thay đổi quan niệm về bảo tồn di sản. Theo bà Hạnh, đã đến lúc nhìn nhận di sản như một thực thể động, luôn vận động và gắn với đời sống hôm nay. “Chúng ta không nên đóng khung di sản để chỉ ngắm nhìn, mà cần bảo tồn di sản bằng cách gắn nó với sáng tạo, sử dụng và tái tạo ý nghĩa ngay trong hiện tại. Đó chính là cuộc đối thoại giữa quá khứ và con người hôm nay”, bà Hạnh nói. Đối với bà, thay vì e ngại di sản bị phá vỡ, nên khuyến khích các cách tiếp cận mới để mỗi giá trị truyền thống được “tái sinh” bằng ngôn ngữ đương đại mà không đánh mất linh hồn của mình.
Góp thêm chiều sâu cho vấn đề, Tiến sĩ Trần Hoài – Trưởng bộ môn Di sản học, Trường Khoa học Liên ngành & Nghệ thuật (ĐHQGHN) – kể câu chuyện về nghệ nhân A Thút, người Ba Na ở Tây Nguyên. Khi ngôi làng phải di dời vì xây dựng đập thủy điện, ông A Thút đã biến các buổi diễn cồng chiêng thành dịp cộng đồng cùng nhìn lại, làm mới văn hóa của mình. “Ông không chỉ biểu diễn cồng chiêng như một nghi lễ, mà còn xem đó là cơ hội kể câu chuyện bản sắc Ba Na với thế giới, truyền dạy cho người trẻ, tương tác cùng khán giả. Nhờ vậy, di sản thực sự được tiếp thêm sức sống”, ông Hoài chia sẻ. Câu chuyện này cho thấy di sản không tĩnh tại mà vận động qua trao truyền, tái hiện, nơi nghệ nhân vừa là người giữ gìn vừa là chủ thể sáng tạo.
Từ góc nhìn pháp lý, Tiến sĩ Lê Tùng Sơn (ĐH KHXH&NV) chỉ ra một khoảng trống lớn trong hệ thống hiện hành về quyền lợi kinh tế của cộng đồng nắm giữ tri thức bản địa. Ông Sơn cho biết: “Luật pháp hiện nay mới công nhận giá trị tinh thần, chưa có cơ chế chia sẻ lợi ích vật chất với nghệ nhân, trong khi các nhà sáng tạo dựa trên di sản lại được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Điều này dẫn đến nghịch lý là cộng đồng có thể phải trả tiền để tiếp cận chính di sản của mình”. Theo ông, cần một khung pháp lý công bằng, đảm bảo mỗi sản phẩm sáng tạo từ di sản đi kèm trách nhiệm xã hội và sự chia sẻ lợi ích hợp lý với cộng đồng.
Ở chiều ngược lại, nhiều mô hình hợp tác tích cực cũng được nêu bật. Giám đốc Trung tâm Xúc tiến và Quảng bá Di sản Văn hóa phi vật thể Việt Nam (VICH) – bà Nguyễn Thị Lệ Quyên – chia sẻ về những nỗ lực kết nối nghệ nhân với giới trẻ, đưa các loại hình nghệ thuật như chèo, xẩm, hát văn đến gần hơn với thế hệ mới. “Chúng tôi muốn người trẻ không chỉ xem di sản như bài học quá khứ, mà còn cảm nhận đó là một phần của chính mình. Khi người trẻ tìm thấy bản thân trong di sản, thì di sản mới thực sự sống”, bà Quyên khẳng định.
Cùng tinh thần đó, nghệ sĩ thị giác Trần Thảo Miên cho biết sáng tạo từ di sản đòi hỏi sự khiêm nhường và tôn trọng. “Di sản không phải là nguyên liệu để khai thác, mà là đối tác để cùng đối thoại. Sự hợp tác bền vững chỉ đến khi có sự công bằng, tôn trọng giữa người sáng tạo và cộng đồng nắm giữ tri thức”, cô chia sẻ.
Nhìn lại các trao đổi đa chiều tại hội thảo, có thể thấy di sản không chỉ dừng ở ký ức, mà còn là nguồn lực quý giá cho sáng tạo, phát triển. Chỉ khi được bảo tồn trong sự vận động, di sản mới trở thành dòng chảy nuôi dưỡng bản sắc Việt Nam giữa thời hiện đại. Muốn vậy, đòi hỏi một hệ sinh thái sáng tạo có trách nhiệm, nơi mỗi sản phẩm không chỉ đẹp về hình thức mà còn giàu đạo đức, tri thức và gắn bó cùng cộng đồng.










