“Hội chứng” e ngại... tượng đài

Chia sẻ

Những ngày đầu tháng 5, hai dự án xây dựng tượng đài bỗng chốc trở thành tâm điểm của dư luận, dù chỉ là những tượng đài… cấp huyện. Đó là tượng đài Bà Triệu với kinh phí 20 tỷ đồng tại khu công viên quảng trường trung tâm huyện Yên Định (Thanh Hóa) và tượng đài Chiến thắng Khâm Đức với kinh phí khoảng 14 tỷ đồng của huyện Phước Sơn (Quảng Nam).

Tượng đài Chiến thắng Khâm Đức với kinh phí khoảng 14 tỷ đồng của huyện Phước Sơn (Quảng Nam)Tượng đài Chiến thắng Khâm Đức với kinh phí khoảng 14 tỷ đồng của huyện Phước Sơn (Quảng Nam)

Thực ra, so với những dự án công trình/cụm công trình tượng đài “trăm tỷ”, hay thậm chí ngàn tỷ khác, thì những dự án một hai chục tỷ nói trên chưa thấm vào đâu, ít nhất là về quy mô đầu tư. Nhưng chúng trở thành nỗi bức xúc của dư luận bởi hai dự án xây dựng tượng đài ấy đều ở huyện nghèo.

Từ trước tới nay, mỗi khi có công trình tượng đài ở khắp cả nước, dư luận lại dành sự “quan tâm” rất lớn, vì sao vậy? Phải chăng xây dựng tượng đài là… chơi sang, là đầu tư không cần thiết?

Còn nhớ trước đây, câu chuyện một địa phương tuyên bố không bắn pháo hoa để tiết kiệm tiền tỷ cho dân nghèo. Trong cuộc tranh luận nên hay không nên bắn pháo hoa dịp ngày đó, tôi nhớ nhất một ý kiến trên báo chí ủng hộ việc tiêu tốn tiền tỷ bắn pháo hoa bằng một triết lý khiến cá nhân tôi giật mình: người nghèo cũng cần pháo hoa!

Ý kiến này không phải không có lý. Tại sao nhiều người cứ nghĩ rằng người nghèo thì chỉ cần cơm ăn, áo mặc, các chương trình từ thiện? Người nghèo cũng cần các niềm vui tinh thần để làm động lực cho cuộc sống, để vươn lên thoát nghèo.

Nhưng giữa nhu cầu tinh thần và vật chất luôn cần một sự hài hòa và thiết thực. Nếu bắn pháo hoa mang lại cho đông đảo người dân, kể cả người vô gia cư niềm hân hoan bất tận trong dịp năm mới, thì đáp ứng nhu cầu ấy cũng là cần thiết. Vấn đề là tổ chức bắn pháo hoa ở những đâu, với quy mô tầm mức như thế nào…

Cũng tương tự như vậy, xây dựng tượng đài, hay các công trình văn hóa nghệ thuật, xét về bản chất là việc làm đáng hoan nghênh, để đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân, trong đó có nhu cầu giáo dục, tìm hiểu lịch sử, truyền thống. Vấn đề là tính cấp thiết của công trình ấy ra sao, và chất lượng mỹ thuật thế nào?
Nếu tiếp cận các dự án tượng đài như vậy, chúng ta sẽ không đi từ thái cực này tới thái cực khác, cụ thể là không ồ ạt xây dựng tượng đài, nhưng cũng không hễ thấy dự án tượng đài là phản đối với lý do “người nghèo”, “huyện nghèo”…

Phải thấy rằng, ở những huyện còn nghèo, thì tính cấp thiết của công trình là điều cần phải cân nhắc hết sức kỹ càng, nhất là trong bối cảnh cuộc sống của nhiều tầng lớp nhân dân đang hết sức khó khăn do đại dịch Covid-19. Mọi sự chi tiêu đều phải tính toán để trước hết ổn định đời sống nhân dân và hồi phục sản xuất kinh doanh.

Nhưng ngay cả khi khó khăn qua đi, việc xây dựng các công trình văn hóa nghệ thuật cũng là cả một bài toán nan giải, không chỉ là chuyện tốn kém tiền tỷ, mà chính là về giá trị thẩm mỹ của công trình. Hệ thống tượng đài của nước ta được đánh giá là vô cùng đồ sộ, đầu tư với biết bao công sức tiền bạc của nhân dân, nhưng giá trị mỹ thuật lại là một dấu hỏi lớn, thậm chí vẫn đang tồn tại những tượng đài vừa kém cỏi về mặt thẩm mỹ, vừa xuống cấp về mặt chất lượng, mà không dễ gì tu bổ lại càng khó khăn trong việc… di dời hay đập đi. Lãng phí về mặt tiền bạc là một chuyện. Lãng phí về mặt thẩm mỹ mới là chuyện lâu dài. Đó là chưa kể những tiêu cực xung quanh các công trình tượng đài không phải là chưa từng xảy ra.

Để phòng chống những nguy cơ đó, phải bắt đầu từ việc quy hoạch hệ thống tượng đài; tạo cơ chế, quy trình để tuyển chọn được những mẫu tượng đài tốt, có giá trị mỹ thuật cao; đào tạo đội ngũ thi công; đến việc tăng cường quản lý đầu tư xây dựng để các công trình tượng đài để đảm bảo chất lượng kỹ thuật, mỹ thuật, tránh thất thoát lãng phí…Đặc biệt cần tăng cường xã hội hóa, thu hút các nguồn lực đầu tư cho văn hóa thông qua loại hình tượng đài và các công trình mỹ thuật hoành tráng khác. Bài học của hai huyện nghèo đòi xây tượng đài giữa mùa Covid-19 cũng là bài học lớn cho các địa phương khác đang có “khát vọng” xây tượng đài nhiều tỷ đồng.

MỸ NGUYỄN

Tin cùng chuyên mục

Nữ “tổng tài” từ màn ảnh tới đời thực!

Nữ “tổng tài” từ màn ảnh tới đời thực!

(PNTĐ) - Ở tuổi 35, Phan Minh Huyền lựa chọn kỹ các vai diễn, độc lập tự chủ trong cuộc sống cùng con trai, giữ gìn vóc dáng và trân trọng từng khoảnh khắc tự do tự tại. Có thể nói, cả trên phim lẫn ngoài đời, Phan Minh Huyền đều toát lên hình ảnh nữ “tổng tài” - người phụ nữ biết mình muốn gì, làm gì và làm thế nào để có cuộc sống hạnh phúc.
Một thập kỷ gìn giữ và lan tỏa di sản Nghi lễ - trò chơi kéo co

Một thập kỷ gìn giữ và lan tỏa di sản Nghi lễ - trò chơi kéo co

(PNTĐ) -Trong khuôn khổ Festival Thăng Long - Hà Nội 2025 diễn ra từ ngày 1-16/11, Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội phối hợp với phường Long Biên và Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tổ chức sự kiện kỷ niệm 10 năm Nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Để văn hóa là “nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh, động lực to lớn và hệ điều tiết” của phát triển bền vững

Để văn hóa là “nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh, động lực to lớn và hệ điều tiết” của phát triển bền vững

(PNTĐ) - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam đang được chuẩn bị với Dự thảo Văn kiện xác lập những định hướng chiến lược cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Trong đó, lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam tiếp tục được khẳng định là một trụ cột quan trọng, đồng thời bổ sung nhiều quan điểm, nội dung mới phù hợp với bối cảnh phát triển hiện nay. Có thể thấy, tư duy của Đảng về văn hóa trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã có bước phát triển rõ rệt - từ coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội sang coi văn hóa, con người là trung tâm, mục tiêu và động lực của phát triển bền vững trong thời kỳ mới.
Đổi mới sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa – đòn bẩy phát triển văn hóa và con người Việt Nam thời kỳ mới

Đổi mới sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa – đòn bẩy phát triển văn hóa và con người Việt Nam thời kỳ mới

(PNTĐ) - Thời kỳ mới với đặc trưng là hội nhập quốc tế sâu rộng và sự bùng nổ của công nghệ đặt ra yêu cầu phải thay đổi căn bản cách tiếp cận đối với di sản văn hóa. Bảo tồn truyền thống không còn là việc “giữ nguyên trạng”, “tĩnh tại và đông cứng”, mà phải là quá trình đổi mới sáng tạo để di sản trở nên sống động, hấp dẫn và phải tạo ra được giá trị mới: việc áp dụng tư duy sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa chính là chìa khóa để biến di sản thành nguồn lực nội sinh mạnh mẽ, thúc đẩy phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam toàn diện.