Bài 2: Hóa giải mâu thuẫn bằng phép nước , lệ làng
PNTĐ-Bốn xã Hát Môn, Vân Hà, Tam Thuấn, Hiệp Thuận huyện Phúc Thọ có 5.580 hội viên phụ nữ. Qua các cuộc tư vấn pháp luật, chúng tôi ghi nhận nhiều ý kiến bày tỏ niềm vui.
Bốn xã Hát Môn, Vân Hà, Tam Thuấn, Hiệp Thuận huyện Phúc Thọ có 5.580 hội viên phụ nữ. Qua các cuộc tư vấn nâng cao hiểu biết pháp luật cho chị em do Huyện Hội tổ chức, chúng tôi ghi nhận nhiều ý kiến bày tỏ niềm vui: “Đa số các vụ mâu thuẫn vợ chồng đều được hòa giải từ cơ sở”.
1 Chị Khuất Thị Luyến, Phó Chủ tịch Hội PN huyện cho biết, Phúc Thọ có 23 xã. Các xã đều thành lập tổ hòa giải với sự tham gia của chính quyền, đoàn thể địa phương. Cánh tay nối dài của tổ hòa giải cấp xã là các tổ hòa giải tại thôn, xóm, cụm dân cư. Hội phụ nữ còn thành lập các tổ hòa giải với cơ cấu 100% thành viên là cán bộ, hội viên phụ nữ. Lực lượng hòa giải viên trải rộng tạo thành mạng lưới “ăng ten” phát hiện nhanh mâu thuẫn từ khi mới phát sinh. Nhờ thế mà những vụ việc tương tự như trường hợp anh Q (xã Tam Thuấn) đánh vợ đều được giải quyết kịp thời.
![]() |
Một cuộc đối thoại trực tiếp giữa luật gia với chị em phụ nữ do Hội PN huyện Phúc Thọ tổ chức |
Chị Đỗ Thị Mạch, Phó Chủ tịch Hội PN xã Tam Thuấn chia sẻ: Qua tổ chức xác minh, biết chính xác anh Q ngoại tình, có chứng cứ rõ ràng, chúng tôi mới đến gặp anh tại nhà. Ban đầu tưởng tổ hòa giải chỉ nghe “phong thanh” rồi “võ đoán”, anh Q cãi rất hăng, đổ lỗi cho vợ “ghen tuông lung tung”. Khi tổ hòa giải công bố “sách trắng” rồi phân tích để anh hiểu gia đình anh có nguy cơ tan nát vì mối tình thoảng qua của anh với cô gái phố, thì anh mới tâm phục khẩu phục, quay về vun đắp cho tổ ấm của mình.
Chị Đặng Thị Ca, Phó Chủ tịch Hội PN nữ xã Hát Môn kể cho chúng tôi nghe một trong số những vụ việc khó tổ hòa giải vừa giải quyết thành công. Cặp vợ chồng trẻ ở cụm dân cư số 5 - anh H (SN 1983), chị N (SN 1988) sau thành hôn đã sinh liền 2 cậu con trai. Chị N bận con mọn cố gắng lắm cũng chỉ đảm đương được vài sào ruộng. Anh H làm thợ xây, thu nhập thấp. Cuộc sống khó khăn khiến hai vợ chồng mâu thuẫn. Anh H còn đánh cả vợ. Chị N bỏ về nhà mẹ đẻ và đòi ly hôn.
Chuyện buồn của anh chị kéo theo xung đột giữa hai bên thông gia. Tổ hòa giải đã kiên trì gặp anh H, chị N và hai bên gia đình khuyên giải. Đến cuộc hòa giải thứ 6, anh H, chị N và các con mới được đoàn tụ. Nói về thành công của tổ, các chị nêu bí quyết: trước hết cần phân tích cho các bên biết hành vi nào là vi phạm Luật Hôn nhân Gia đình; Luật Phòng chống bạo lực gia đình; Luật Hình sự. Tiếp theo, chúng tôi nhắc mọi người sống tôn trọng “lệ làng”. Nam nữ khi đã kết hôn thì không được “léng phéng” bên ngoài…
2 Vui với những việc đã làm được, nhưng các chị cán bộ Hội PN cơ sở cũng không khỏi lo lắng về một số vụ liên quan đến mâu thuẫn đất đai mà tổ hòa giải đành chịu “bó tay”. Cụ bà Nguyễn Thị Th sinh được 7 người con (2 trai, 5 gái). Cụ được bố mẹ để cho một mảnh đất. Trước đây cụ đã tuyên bố cho hai anh con trai diện tích này. Nay, cụ đổi ý - chia đất cho 5 cô con gái. Vậy là phía mẹ già và phía con trai phát sinh mâu thuẫn. Hòa giải ở cơ sở không thành, cụ đến TAND huyện đòi Tòa buộc 2 con trai phải trả lại đất. Nhưng, khi Tòa yêu cầu cụ xuất trình sổ đỏ thì cụ lại nói thác: “tôi đánh mất rồi”. Thế là Tòa đành hướng dẫn cụ quay về nhờ địa phương hòa giải. Cụ P và vợ là cụ C (đã mất) để lại 1 thửa đất “nạc” và 1 khoảnh đất ao. Các cụ có 2 con trai. Lúc sinh thời hai cụ đã lập di chúc cho anh con cả đất “nạc”, cho anh con út đất ao. Sau đó, người con cả đem theo một bản di chúc vào miền Nam làm ăn.
Hai cụ sống với anh con út. Ghi nhận công lao chăm sóc cha mẹ già của con út, hai cụ cho anh đứng tên trong sổ đỏ mảnh đất “nạc”. Bây giờ người anh cả kiên quyết đòi người em phải làm theo di chúc. Cụ H và cụ S có 3 người con trai. Trước khi qua đời, 2 cụ sống với con út là ông T. Ông T lấy vợ, sinh được 1 con gái là chị P. Chị P mới được 6 tuổi thì ông T bị tai nạn qua đời. Thờ chồng được 2 năm, vợ ông T tái hôn, đem theo con gái về nhà chồng mới. Rồi cụ H và cụ S đều qua đời. Ông N – con cả của hai cụ phá ngôi nhà cũ của bố mẹ, xây nhà tầng, thì bị chị P phản đối.
Chị đòi ông N cắt một phần đất ông bà để lại để chị làm nơi thờ cúng bố mình. Ông N không đồng ý vì cho rằng, ông T đã chết thì không được chia đất, chị P không có quyền đòi hỏi…
“Ách tắc” trong công tác hòa giải trước hết là do sự hiểu biết pháp luật của người dân vùng ven nội còn nhiều hạn chế. Bà con cứ hiểu theo suy diễn chủ quan của mình, khó tiếp thu ý kiến người “gỡ rối”. Về phía tổ hòa giải, hầu hết các thành viên chưa được đào tạo cơ bản, kiến thức pháp luật chưa sâu nên còn lúng túng khi giải quyết các vụ việc phức tạp. Mặt khác, khi đất trở thành tài sản có giá trị kinh tế cao thì cán bộ càng gặp khó khi thuyết phục các bên đương sự nhường nhịn lẫn nhau.
Hồng Liên