Lao động di cư: Bị loại khỏi chính sách bảo hiểm y tế?
PNTĐ-Lao động (LĐ) di cư là một lực lượng khá lớn tại các khu đô thị lớn, nhất là tại Hà Nội. Nhóm xã hội này hiện đang còn rất… “mù mờ” thông tin về bảo hiểm y tế (BHYT)...
Sự thay đổi của chính sách với những quy định như: không chi trả vượt tuyến; bắt buộc mua theo hộ khẩu, đã vô tình loại lao động di cư ra khỏi chính sách an sinh xã hội rất nhân văn và ưu việt này.
![]() |
Nhiều lao động di cư còn “mù mờ” thông tin về BHYT (ảnh minh họa) |
Nhiều rào cản khi muốn tiếp cận BHYT
Hai vợ chồng bà Phạm Thị Dung rời quê Xuân Trường, Nam Định lên Hà Nội kiếm sống. 4 năm qua, bám trụ ở Thủ đô, hàng ngày bà Dung thu gom đồng nát với thu nhập 4 triệu đồng/tháng, còn chồng chạy xe ôm. Trừ chi phí ăn ở, họ cũng chỉ còn dăm ba triệu đồng, gói gém gửi về quê nuôi các con ăn học. Công việc vất vả, ăn uống tằn tiện, ở trọ tạm bợ lại bước vào tuổi 50 với ốm đau, bệnh tật là vấn đề hai vợ chồng bà phải đối mặt. Để có chỗ dựa về tài chính, giảm bớt chi phí khám chữa bệnh, bà Dung đã tính đến chuyện mua thẻ BHYT nhưng lại không biết phải mua thẻ ở đâu, mua thẻ như thế nào.
Gần đây, qua một đợt truyền thông, bà Dung mới có được những thông tin ban đầu về BHYT. Tuy nhiên, vẫn có nhiều điều bà còn phân vân như nếu mua BHYT ở quê thì mỗi lần ốm đau lại phải ngược về quê khám, mất rất nhiều thời gian và tiền bạc; khám ở thành phố thì trái tuyến, không được thanh toán như trước đây, tính đi tính lại cũng bằng chi phí khám dịch vụ. Thế thì, “tôi khám dịch vụ ở Hà Nội cho nhanh chứ không cần mua thẻ BHYT nữa”. Câu chuyện của bà Dung đã cho thấy, chính việc không thể giảm bớt chi phí khi khám chữa bệnh trái tuyến là lý do những LĐ di cư không muốn mua BHYT theo hộ gia đình tại quê.
Để tháo gỡ điều này, quy định mới được đề cập trong Luật BHYT đã cho phép LĐ di cư và LĐ phi chính thức tham gia BHYT theo hộ gia đình cả ở nơi đến, chỉ cần họ có đăng ký tạm trú và đóng theo hộ gia đình trong sổ tạm trú. Nhưng công việc phù hợp và phổ biến nhất LĐ di cư là bán hàng rong, thu gom đồng nát, chạy xe ôm… thì lại thường xuyên di chuyển chỗ trọ, nên việc đóng bảo hiểm liên tục cho các quý, các kỳ trong năm là khá khó khăn.
Đó cũng là lý do khiến họ không mặn mà với BHYT. Trong khi đó, so với các nhóm LĐ khác, LĐ di cư vào TP lớn như Hà Nội mưu sinh đa phần là những người khó khăn, chấp nhận làm công việc chân tay, vất vả; cường độ LĐ lớn và có nguy cơ mắc bệnh do tác động ô nhiễm môi trường, do làm việc quá sức, bệnh dịch, các bệnh về đường tình dục… cao.
Cần chính sách gần hơn với LĐ di cư
Một khảo sát được Viện Phát triển sức khỏe cộng đồng thực hiện trong thời gian từ tháng 11/2014 đến tháng 2/2015 tại Chương Dương và Phúc Tân - hai phường thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có số lượng lớn LĐ di cư đang tạm trú đã cho thấy, bên cạnh tư vấn, đăng ký tạm trú thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe của những người bán hàng rong và đồng nát rất lớn. Có tới 55,2% số người được hỏi cho rằng tư vấn dịch vụ và khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe là rất cần thiết; tiếp đó là tư vấn và mua BHYT tự nguyện (48,1%); dịch vụ tư vấn pháp luật, chính sách (40,5%), thấp nhất là dịch vụ tư vấn, mua BHXH (25,5%).
Song trên thực tế số lượng LĐ di cư có thẻ BHYT là rất thấp. Chỉ 13,1% người trả lời có thẻ BHYT dành cho hộ nghèo, 1,9% có thẻ BHYT dành cho gia đình chính sách – hai đối tượng này được cấp phát thẻ miễn phí. Những người chịu bỏ tiền ra mua thẻ BHYT tự nguyện (với mức giá là hơn 600.000 đồng/năm) chỉ chiếm 17%. Theo bác sỹ Nguyễn Thu Giang, Phó Viện trưởng Viện Phát triển sức khỏe cộng đồng, tỷ lệ người LĐ di cư chưa có thẻ BHYT cao cho thấy họ sẽ phải đối mặt với những nguy cơ ảnh hưởng tới tài chính và sức khỏe, khả năng LĐ khi gặp tai nạn, rủi ro.
Trước thực trạng này, bác sỹ Nguyễn Thu Giang cho rằng, thay bằng việc quy định bắt buộc tất cả thành viên hộ gia đình theo hộ khẩu hoặc đăng ký tạm trú đều phải tham gia BHYT thì cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng các dịch vụ BHYT, đồng thời có hỗ trợ cho nhóm LĐ di cư và LĐ phi chính thức.
Còn bà Ngô Thị Ngọc Anh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu giới gia đình và phát triển cộng đồng thì cho rằng, tăng cường cơ hội cho LĐ di cư tiếp cận với an sinh xã hội là việc làm nhân văn, đặc biệt khi Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng đô thị hóa. Tuy nhiên, nếu muốn chính sách an sinh xã hội của Việt Nam đạt được mục tiêu đề ra là đến năm 2020 tăng nhanh tỷ lệ dân số có BHYT để tiến tới mục tiêu BHYT toàn dân (khoảng 77 triệu người tham gia BHYT chiếm 80% dân số, trong đó người được Nhà nước hỗ trợ là 48,6 triệu người chiếm 63% tổng số người tham gia) thì cần phải có những chính sách “mở” để hỗ trợ cho những LĐ di cư. Trong đó phải có những cuộc khảo sát, nghiên cứu chuyên sâu trên diện rộng để tìm ra những rào cản của LĐ di cư để từ đó có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho nhóm xã hội này.
Hoàng Đức