Tài sản của vợ chồng sao lại "gạt" cho người khác?
PNTĐ-Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa sơ thẩm đã mắc nhiều sai sót. Đó là những nhận định chưa có chứng cứ vững chắc...
Sau hơn 10 năm chung sống, tháng 3/2011, chị Nguyễn Thị Được (SN 1981), trú tại 71 đường Hoàng Tăng Bí, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm và anh Phạm Quang Kiêm (SN 1973) thuận tình ly hôn (chị Được nuôi cả 2 con). Tháng 9/2011 chị Được khởi kiện chia tài sản chung. Ngày 23-24/5/2013, TAND huyện Từ Liêm xét xử sơ thẩm vụ án này và đã “gạt” căn nhà ở 71 đường Hoàng Tăng Bí – tài sản chung của anh chị cho bố mẹ của anh Kiêm, đặt 3 mẹ con chị Được trước nguy cơ không chốn nương thân.
Chị Được trình bày, nhà đất ở 71 đường Hoàng Tăng Bí (nhà 71), địa chỉ cũ là số 1B, nhà B1, khu tập thể quân đội K212; diện tích 63m2; “Sổ đỏ” số 012119854600455, do UBND huyện Từ Liêm cấp ngày 17/1/2008, mang tên Nguyễn Thị Được. Ngôi nhà này do anh Kiệm ký giấy mua tháng 10/2000 của bà Vũ Thị Thể (diện tích phần nhà này bằng ½ diện tích nhà bà Thể được đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng phân cho).
![]() |
Chị Nguyễn Thị Được tại Báo PNTĐ |
Bênh vực quyền lợi cho phía anh Kiêm, Hội đồng xét xử (HĐXX) do Thẩm phán Nguyễn Thị Thu Nga làm Chủ tọa, đưa ra 3 căn cứ xác định nhà 71 là tài sản của ông Phạm Quang Kiệm (SN 1955) và bà Nguyễn Thị Bảo (SN 1952), là bố mẹ đẻ của anh Kiêm. Đó là: Tại “Giấy bán nhà” lập ngày 16/5/2000, thể hiện việc bà Thể bán nhà cho ông Kiệm (chứ không bán cho anh Kiêm); Chị Được không trực tiếp mua nhà, đất với bà Thể (mà do anh Kiêm đứng ra giao dịch); “Tại (mục 1), Điều 4 Quyết định số 23/2008/QĐ-UBND ngày 9/5/2008 của UBND TP Hà Nội, quy định điều kiện về hộ khẩu khi xét giấy chứng nhận: “Người được xét cấp giấy chứng nhận phải có hộ khẩu tại Hà Nội”. Thời điểm này ông Kiệm, bà Bảo đăng ký hộ khẩu ở Bắc Giang, nên việc kê khai làm thủ tục xin cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông bà nhờ chị Được đứng tên, kê khai hộ”.
Cả 3 căn cứ HĐXX đưa ra đều không đảm bảo tính khách quan, công bằng, bởi lẽ:
1. Tòa không công nhận giao dịch mua bán nhà đất giữa anh Kiêm và phía bà Thể vào ngày 10/10/2000, mà công nhận bằng chứng do phía anh Kiêm đưa ra là “Giấy bán nhà” giữa bà Thể và ông Kiệm, lập ngày 16/5/2000. Tờ giấy này chỉ nhìn bằng mắt thường cũng thấy nó “mới tinh” như vừa được lập trước khi mở phiên tòa, chứ không giống như được viết ra từ hơn 10 năm trước. Trong khi khoa học hình sự chưa giám định được tuổi mực, lẽ ra tòa cần căn cứ vào những chứng cứ khác để có sự phán quyết công minh, nhưng HĐXX đã không làm như vậy. Nếu HĐXX và phía anh Kiêm cho rằng, nhà 71 là của bố mẹ anh Kiêm, vậy tại sao trong “Biên bản vi phạm hành chính về hoạt động xây dựng” do UBND xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm lập ngày 11/4/2005, anh Kiêm đã ký xác nhận (với tư cách là chủ nhà vi phạm trật tự xây dựng – xây nhà không phép): “Nguồn gốc đất (nhà 71): Tổng cục Hậu cần phân phối nhà ở cho bà Vũ Thị Thể… ông Phạm Quang Kiêm mua lại diện tích 63m2 nhà cấp IV, mua bán trao tay”?;
Trong “Giấy xác nhận” do anh Kiêm viết ngày 26/2/2009, khi gia đình có tranh chấp với hàng xóm về đường rãnh thoát nước, anh ghi rõ: “Tôi được bà Vũ Thị Thể chuyển nhượng cho tôi căn hộ tập thể cấp 4” và anh Kiêm, bà Thể, đều ký xác nhận điều này? Trong “Giấy chuyển nhượng nhà” lập ngày 22/3/2010 cũng do chính tay anh Kiêm viết và ký tên có nội dung: “Vợ chồng tôi có căn nhà (nhà 71)… Nay vì điều kiện gia đình nên vợ chồng tôi chuyển nhượng cho anh Đỗ Trọng Hoàng” (vì chị Được không đồng ý bán nên giao dịch không thành)?
2. Pháp luật về Hôn nhân & Gia đình quy định: tài sản chung vợ chồng là tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân. Không có văn bản nào quy định vợ chồng mua sắm bất cứ loại tài sản nào cũng nhất thiết phải cần sự có mặt của cả 2 người. Việc HĐXX nêu lý do, chị Được “không trực tiếp giao dịch mua nhà đất với bà Thể” để gạt bỏ quyền lợi của chị đối với nhà 71 là không thỏa đáng.
3.Theo trình bày của ông Kiệm, bà Bảo tại tòa, họ đã ở Hà Nội từ “tháng 3 năm 1998”. Vậy thì ông bà thuộc đối tượng áp dụng mục 2, Quyết định số 23/2008/QĐ-UBND (chứ không phải mục 1 của Quyết định này như HĐXX đã viện dẫn): “Người không có HKTT tại Hà Nội nhưng đã nhận chuyển nhượng, nhận tặng, cho nhà ở, đất ở… và thời gian ăn ở ổn định tại Nà Nội từ một năm trở lên thì được cấp giấy chứng nhận ”. Ông Kiệm, bà Bảo đã ở Hà Nội trước khi nhà 71 được cấp “Sổ đỏ” tới hơn mười năm nên lý do họ phải “nhờ” chị Được đứng tên “Sổ đỏ” là vô lý.
HĐXX còn không đưa Cty đầu tư phát triển Nhà và Đô thị - Bộ Quốc phòng (Cty) tham gia tố tụng. Đó là điều trái với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tổ P.V