Vẫn còn gặp khó (!)
PNTĐ-Bộ LĐ-TB&XH vừa tổng kết 10 năm thi hành Pháp lệnh phòng chống mại dâm (2003-2014). Tham gia diễn đàn này, Sở LĐ -TB&XH đã nêu lên thực trạng tệ nạn mại dâm (TNMD) tại HN.
Theo đó, thực trạng TNMD tại HN đang “diễn biến phức tạp” và nêu giải pháp: “xây dựng các mô hình hỗ trợ phù hợp tại cộng đồng, tạo cơ hội cho người bán dâm (NBD) hoà nhập cộng đồng bền vững”.
Mô hình đậm tính nhân văn
Theo thông tin từ Bộ LĐ-TB&XH và Chi cục Phòng chống TNXH, cả nước hiện có khoảng 30 ngàn người bán dâm (trong đó có 11.240 người có hồ sơ quản lý). Tại Hà Nội con số này ước tính vào khoảng hơn 5.000 người (hơn 2.000 người có hồ sơ quản lý).
Trong nhiều năm qua Hà Nội đã không ngừng nỗ lực trong công tác phòng chống TNMD. Những biện pháp mạnh như: triệt phá ổ nhóm, truy tố chủ chứa, đưa NBD vào Trung tâm Chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội (TT) tại thời kỳ đó đã đem lại kết quả rõ rệt.
Đơn cử như: năm 2003, TP còn tồn tại 55 tụ điểm hoạt động MD công cộng với 2.000 NBD tụ tập đón khách; 3.599 cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ phát sinh tệ nạn với gần 5.000 tiếp viên nữ thì đến năm 2007, TNMD đã được kiềm chế, số tụ điểm MD công cộng và tụ điểm trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ đã giảm tới 2/3 (từ 55 giảm còn 18 tụ điểm).
Năm 2008 HN mở rộng địa giới hành chính (diện tích tăng gấp 3 lần, dân số tăng gấp 2 lần), TNMD lại trở nên khó kiểm soát. Nhiều đối tượng tiếp tục bị xử lý hình sự, số NBD bị bắt giữ, chuyển đến TT tại thời điểm này lên tới hơn 1.000 người, TNMD đang có chiều hướng bùng phát.
Năm 2012, Quốc hội ban hành Nghị quyết 24 quy định: “Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với NBD. Người có hành vi bán dâm bị xử lý vi phạm hành chính”. Căn cứ vào quy định này, toàn bộ gái MD đang được chữa bệnh, quản lý tại TT của HN được trả về lại phố phường. Và, TNMD tại HN càng trở nên nan giải. NBD có xu hướng quay trở lại hoạt động ở các điểm công cộng, tự do hoạt động gây khó khăn cho TP trong việc quản lý địa bàn.
Trước thực tế này, Sở LĐ-TB&XH HN đã có đề xuất: “Xây dựng các mô hình hỗ trợ phù hợp tại cộng đồng đối với NBD để có thể cung cấp kịp thời các dịch vụ tư vấn tâm lý, pháp lý; có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho NBD tiếp cận, sử dụng các dịch vụ can thiệp dự phòng; tạo cơ hội cho NBD thay đổi công việc, hoà nhập cộng đồng bền vững”. Mô hình thân thiện đậm tính nhân văn này Bộ LĐ-TB&XH giao cho HN làm thí điểm - Chi cục Phòng chống TNXH là đơn vị trực tiếp triển khai.
Kết quả bước đầu và khó khăn cần tháo gỡ
Theo bà Nguyễn Thị Thanh Thủy - P. Chi cục trưởng Chi cục Phòng chống TNXH TP Hà Nội, từ tháng 6/2012, Chi cục tiếp quản dự án PLAN, tổ chức phi Chính phủ quốc tế này tài trợ kinh phí để HN triển khai mô hình thân thiện nêu trên.
Cụ thể, NBD (đặc biệt là gái MD đường phố) không hạn chế số lượng, tuổi dưới 25 hoặc dưới 35 nếu có con nhỏ đều được tham gia dự án. Chị em được 4 tổ chức: LIGHT, CSAGA, REACH, CSIP hỗ trợ về sức khoẻ sinh sản và phòng các bệnh lây qua đường tình dục; tâm lý, pháp lý; hướng nghiệp dạy nghề, tạo việc làm; kỹ thuật xây dựng kế hoạch sinh kế bền vững. Chi cục giữ vai trò kết nối, giám sát, kiểm tra hoạt động của các tổ chức này.
![]() |
Giờ tư vấn hướng nghiệp do bà Nguyễn Thị Thanh Thủy, P. Chi cục trưởng Chi cục PCTNXH đứng lớp |
Chị Lê Thị Hương, một gái MD có tên trong danh sách 208 chị em rời khỏi TT đợt cuối cùng vào tháng 12/2012 “khoe” với chúng tôi: “Được hưởng lợi từ dự án, tôi và 271 người cùng cảnh đã được hỗ trợ, tiếp cận dịch vụ khám sức khỏe. Chị em hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ 750.000 đồng/người/lần khám phụ khoa, test HIV, viêm gan B”. Sức khỏe của số chị em này đã được cải thiện rõ rệt. Họ cũng đã bớt mặc cảm, thêm tự tin trong cuộc sống. Hiện chị Hương là chủ một cơ sở làm đẹp tại quận Cầu Giấy.
Bà Thanh Thủy cho biết “Chị Hương là một gương mặt thành công với mô hình sinh kế cá nhân”. Những người như chị được dự án hỗ trợ kinh phí mua máy móc, dụng cụ làm nghề (giường gội, máy sấy, máy hấp tóc…) trị giá 15 triệu đồng.
Một mô hình sinh kế nhóm (hai người trở lên liên kết với nhau) đang được Chi cục đánh giá cao là cơ sở sản xuất, kinh doanh chăn, ga, gối, đệm tại quận Đống Đa do chị Trần Thị Phúc và Đỗ Thanh Mai làm chủ. Các chị được dự án hỗ trợ 20 triệu đồng để trang bị máy khâu, máy tính, máy ảnh… 65 chị em khác cũng đã được dạy nghề tạo việc làm: uốn tóc, sơn vẽ móng chân tay, bàn, bar, nghiệp vụ khách sạn, bán hàng, thiết kế web… với mức lương khởi điểm trung bình từ 2,5 – 4 triệu đồng/người/tháng. Số chị em thu nhập dưới 2,5 triệu đồng/tháng được dự án hỗ trợ 750.000 đồng (cho một bữa ăn trong ngày và tiền xe bus đi làm). Chị em có con nhỏ mà mức lương dưới 3 triệu đồng/tháng cũng được nhận mức hỗ trợ này (trong thời gian thử việc).
Kết quả bước đầu của HN trong việc triển khai phòng chống MD theo mô hình mới rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, sau hơn 2 năm tiếp nhận dự án PLAN, với nhiều công sức bỏ ra mà danh sách người hoàn lương, có việc làm, hoà nhập cộng đồng bền vững chỉ đạt 68 người – số lượng quá ít so với tổng số khoảng hơn 5.000 gái MD đang hành nghề tại HN. 3 khó khăn khiến kết quả thực hiện mô hình chưa đạt được như mong muốn là:
1. Dự án hạn chế lứa tuổi khiến nhiều chị em từ 26 tuổi trở lên không có cơ hội tham gia.
2. Trong số những người đủ điều kiện tham gia dự án có không ít chị em do hạn chế về trình độ văn hoá, khả năng tiếp thu kiến thức nên đã phải bỏ cuộc giữa chừng.
3. Kết quả phỏng vấn đầu vào (lớp học nghề) do Chi cục thực hiện cho thấy, thu nhập của gái MD sau khi được học nghề, tạo việc làm (2,5 – 4 triệu đồng/người/tháng trở lên) thấp hơn nhiều so với thu nhập của NBD (10 triệu đồng/người/tháng) khiến nhiều gái MD do dự, chưa muốn “đổi nghề”.
Hồng Liên