Làng nghề cạnh tranh trên “sân nhà”
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực mang lại nhiều lợi ích cho các sản phẩm làng nghề, bởi không gian thị trường, tiếp cận các nguồn lực về công nghệ, vốn cho sự phát triển. Nhưng cùng với đó là những thách thức không nhỏ từ cạnh tranh trên chính “sân nhà” đến các hàng rào kỹ thuật trên “sân bạn”.
Làng nghề sơn mài truyền thống Hạ Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín mới được thành phố công nhận điểm du lịch làng nghề.
Tiềm năng và thách thức
Nắm bắt nhanh cơ hội phát triển mới, những ngày sau dịch Covid-19, không khí sản xuất tại làng nghề Hạ Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín đã nhộn nhịp trở lại với hơn 300 hộ sản xuất với hơn 500 lao động hằng ngày tạo ra nhiều sản phẩm sơn mài đặc sắc. Người dân Hạ Thái sản xuất hàng nghìn sản phẩm theo nhu cầu mỗi thị trường, trong đó, nhiều sản phẩm đã được xuất khẩu tới nhiều quốc gia. Sản phẩm sơn mài Hạ Thái là một trong hơn 7.000 sản phẩm ở địa phương, nhiều sản phẩm làng nghề, thủ công mỹ nghệ đã xuất khẩu ra thị trường quốc tế như: gốm sứ Bát Tràng (huyện Gia Lâm), mây tre giang đan Phú Nghĩa (huyện Chương Mỹ), sơn mài Duyên Thái (huyện Thường Tín)...
Hiện toàn thành phố hiện có 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm số lượng làng nghề lớn nhất toàn quốc. Ước tính, khu vực làng nghề của Hà Nội tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động; giá trị sản xuất đạt khoảng 22.000 tỷ đồng. Ở những làng có nghề, đặc biệt là các làng nghề phát triển, thu nhập bình quân của người dân cao hơn rất nhiều so với các làng thuần nông.
Bà Hà Thị Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề thủ công mỹ nghệ và làng nghề Hà Nội, Giám đốc công ty TNHH gốm sứ Quang Vinh cho rằng, Hiệp định EVFTA mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng đi kèm không ít thách thức. Trước tiên, châu Âu là thị trường kỹ tính, để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu tới thị trường này, yêu cầu bắt buộc không chỉ là chất lượng mà còn phải đáp ứng nhiều tiêu chí khác. Các doanh nghiệp (DN) phải đáp ứng được “hàng rào kỹ thuật” rất khắt khe. Ví dụ như, sản phẩm phải có tính văn hóa, không sử dụng lao động trẻ em trong sản xuất, sản phẩm có môi trường lao động tốt, bảo đảm thu nhập và cuộc sống của người lao động (từ bữa ăn đến khu vệ sinh, tiêu chuẩn tiếng ồn, an toàn lao động...).
Bà Vinh chỉ ra những điểm yếu của làng nghề đó là sự liên kết lỏng lẻo, mô hình kinh doanh của các hộ gia đình mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún; cách thức quản lý, công nghệ sản xuất hàng hóa tại các làng nghề Hà Nội còn lạc hậu. Bởi vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm trong thời gian ngắn là điều rất khó.
Tăng cường bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Theo Bộ Công Thương, hiện cả nước có 5.411 làng nghề và làng có nghề. Tổng doanh thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở sản xuất trong làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN) đạt khoảng hơn 55.000 tỷ đồng.
Sản phẩm thủ công của Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; trong đó, thị trường Mỹ tiêu thụ lớn nhất với doanh số chiếm 35% kim ngạch xuất khẩu hằng năm. Bên cạnh đó là các thị trường như Nhật Bản, Liên minh châu Âu (Đức, Anh, Pháp, Hà Lan), Úc, Hàn Quốc… Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu gồm 5 nhóm: Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù; đồ chơi, dụng cụ thể thao; hàng gốm sứ; sản phẩm mây, tre, cói, thảm; gỗ mỹ nghệ.
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, để các làng nghề thích ứng và tận dụng lợi thế của EVFTA, ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam cho rằng “Khi Hiệp định EVFTA đi vào thực thi, việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đối với ngành hàng thủ công mỹ nghệ là cần thiết. Vì vậy, các DN, hộ sản xuất tại các làng nghề cần đặc biệt cần lưu tâm thương hiệu, chỉ dẫn địa lý mang tính chất địa điểm làng nghề. Khi đó, sẽ khẳng định được thương hiệu của Việt Nam khi tham gia xuất khẩu và bảo đảm được quyền lợi của nhà xuất khẩu”.
Bài và ảnh Vân Nga