Những điểm nhấn kinh tế Việt Nam thời kỳ 1945-2022
(PNTĐ) -Về tổng thể, sau 77 năm kể từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, tuy vẫn còn tồn tại những hạn chế, nhưng nước ta đã đạt được những dấu ấn to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, làm thay đổi căn bản bộ mặt của đất nước.

Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, thiết lập nên Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên Độc lập - Tự do. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam chống đế quốc thực dân, với sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt khôn khéo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo, có phương pháp và chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp, linh hoạt và từ phát huy cao nhất truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc đã được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử…
Vừa mới ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải đối phó với “giặc đói”, “giặc dốt”, và “giặc ngoại xâm”. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nạn đói và nạn lũ lụt lớn, rồi hạn hán kéo dài; nửa tổng số ruộng đất không canh tác được. Mọi ngành sản xuất đều bị sa sút ngưng trệ, hàng hóa khan hiếm, thị trường đình đốn tiêu điều. Kho bạc hoàn toàn trống rỗng. Lạm phát phi mã, giá gạo từ chỗ 4-5 đồng/tạ, đến giữa năm 1945 đã lên tới 700-800 đồng/tạ. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD. Năm 1943 cả nước có 771 cơ sở chữa bệnh, trong đó có 421 bệnh xá, 212 nhà hộ sinh, và 39 bệnh viện. Hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết viết. Cuộc sống của nhân dân đã rớt xuống mức cùng cực khôn tả…
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó “chống giặc đói” được đặt lên hàng đầu, là nhiệm vụ cấp bách, đột xuất số 1. Chính phủ kêu gọi nhân dân “nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”; đẩy mạnh sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp; tự do kinh doanh, buôn bán; tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng; chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý hơn; quy định giảm tô, giảm tức; chủ trương tự do, tăng gia sản xuất, bảo vệ quyền lợi quốc gia, điều hòa quyền lợi giữa tư sản và lao động, giữa địa chủ và nông dân, giữ vững chủ quyền về quan thuế và ngoại thương; củng cố tài chính quốc gia; xóa bỏ các độc quyền nhà nước của chế độ thực dân Pháp và thực hiện chính sách đại đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội: nông dân, công nhân, công thương gia v.v... Đến năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi trên cả nước. Sản lượng lương thực năm 1946 đạt 1.155.000 tấn, gấp đôi năm 1945. Tháng 11-1946, Nhà nước chính thức cho phát hành giấy bạc Cụ Hồ trên phạm vi cả nước.
Sau đại chiến thắng biên giới (10/1950), Việt Nam đã thiết lập và mở rộng, phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc và Liên Xô), góp phần thúc đẩy sản xuất, khai thác lâm, thổ sản, cải thiện đời sống nhân dân. Năm 1952 số thu NSNN đảm bảo được 78% số chi. Năm 1953 lần đầu tiên sau cách mạng tháng Tám số thu NSNN vượt chi được 16%.
Thời kỳ 1955-1975, cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế đã đạt thành tựu to lớn: Nông nghiệp có sự phát triển tích cực, hết năm 1957 đã vượt mức của năm 1939, năm cao nhất trong thời kỳ Pháp thuộc. Sản xuất công nghiệp đã đạt mức năm 1939; sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp cuối năm 1957 bằng 299,8% năm 1939. Trong ba năm 1958 - 1960, bình quân tổng sản phẩm xã hội tăng 14,1%. Năm 1975, GDP bình quân đầu người đạt 232 đồng, tương đương 80 USD. Năm 1975, cả nước có 17 nghìn hợp tác xã nông nghiệp, tăng 12,2 nghìn hợp tác xã so với năm 1958; sản lượng lương thực quy thóc đạt 5,49 triệu tấn, tăng 1,73 triệu tấn so với năm 1955; năng suất lúa đạt 21,1 tạ/ha, tăng 5,2 tạ/ha; đàn lợn có 6,6 triệu con, tăng 4,2 triệu con; giá trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 4.175,4 tỷ đồng, gấp 13,8 lần năm 1955; bình quân năm trong giai đoạn 1956 -1975 tăng 14%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần năm 1955. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân viên chức ở miền Bắc là 27,6 đồng (tăng 57,7% so với năm 1945); thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc là 18,6 đồng (gấp 2,6 lần).

Thời kỳ 1976-1985, nền kinh tế được vận hành theo mô hình kinh tế Liên Xô. Sau hai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và lần thứ ba (1981-1985), Việt Nam đã từng bước khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, về tổng thể, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả, đời sống chung cảu nhân dân còn rát khó khăn và lạm pa hst ngày càng cao.
Thời kỳ 1986-2022, cả nước từng bước thực hiện công cuộc Đổi mới và tăng cường hội nhập quốc tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn đã đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực. Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định. Đặc biệt, siêu lạm từng bước được kiềm chế và đẩy lùi. Nếu như năm 1993, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới là 58,1%, thì đến năm 1998 tỷ lệ nghèo này giảm xuống còn 37,4%.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO từ ngày 11/1/2007. Sự kiện lớn này đã để lại nhiều dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Việc tham gia WTO và hội nhập quốc tế là góp phần đổi mới tư duy chính sách và hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, cũng như quản trị doanh nghiệp, định hình khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát triển các thể chế kinh tế-thương mại, tạo cơ sở pháp lý vững chắc làm cầu nối và xung lực tích cực để Việt Nam từng bước mở cửa, mở rộng quy mô thị trường hàng hóa và dịch vụ, cải thiên cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song phương mà Việt Nam đã cam kết.
Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước (so với 11 nước năm 1954) và quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh thổ; 79 nuowqsc đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, WTO cùng với hơn hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia (16 hiệp định đã ký kết, có hiệu lực và 1 hiệp định đang đàm phán) là những cánh cửa lớn và đa chiều để Việt Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường và tự tin hội nhập toàn cầu ngày càng sâu, rộng, đầy đủ và hiệu quả hơn. Cán cân thương mại hàng hóa chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu 6 năm liên tục từ 2016 đến nay (dù vẫn nhập siêu dịch vụ).

Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt tới 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Cả nước có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%); kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước và có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm 94,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Từ năm 2016 đến nay, cán cân thương mại luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm từ 1,77 tỷ USD (năm 2016); 2,1 tỷ USD (năm 2017); 6,8 tỷ USD (năm 2018); 10,9 tỷ USD (năm 2019); trên 19 tỷ USD (năm 2020) và gần 4 tỷ USD năm 2021. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tăng từ 80,3% kim ngạch xuất khẩu năm 2016 lên mức 85,1% năm 2019 và 85,2% trong năm 2020. Trong khi đó, tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 2% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2016 xuống còn 1% năm 2020. Số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD tăng dần và lên 31 mặt hàng năm 2020. Báo cáo Rà soát thống kê thương mại thế giới năm 2020 của WTO đã ghi nhận trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí thứ 39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019 và lọt vào Top 20 năm 2021.
Việc tuân thủ các cam kết hội nhập cũng giúp Việt Nam cải thiện nhiều chỉ số xếp hạng quốc tế quan trọng khác. Việt Nam xép thứ 67/141 nền kinh tế về Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019. Đồng thời, Việt Nam cũng lọt vào Top 10/163 nước đáng sống nhất thế giới của HSBC Expat 2019; đứng thứ 83/128 nước trong Xếp hạng 2019 về các nước an toàn nhất và xếp thứ 128/192 nước giàu nhất thế giới do tạp chí Global Finance công bố.
Năm 2020, quy mô GDP VN đứng thứ 44 trên thế giới, đứng thứ 4 Đông Nam Á và bình quân GDP / đầu người đứng thứ 6. Đồng thời, Việt Nam là thương hiệu quốc gia tăng giá trị nhanh nhất thế giới trong năm 2020, khi tăng tới 29% so với năm trước, lên 319 tỷ USD; từ vị trí 42 lên 33 trong danh sách 100 thương hiệu quốc gia của Brand Finance (hãng định giá thương hiệu và tư vấn chiến lược độc lập hàng đầu của Anh).
Theo bảng xếp hạng về Chỉ số tự do kinh tế năm 2021 (Index of Economic Freedom 2021) mới công bố của Heritage Foundation (Mỹ), với điểm tổng thể của Việt Nam là 61,7 điểm (cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới). Việt Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới trong bảng xếp hạng điểm số tự do kinh tế của Heritage Foundation. Đây cũng là năm đầu tiên kinh tế Việt Nam bước vào nhóm các nền kinh tế có "tự do trung bình" (Moderately Free), tăng 15 bậc so với năm ngoái, từ nhóm được xem là hầu như không tự do kinh tế.
Còn theo Báo cáo chỉ số quyền lực mềm toàn cầu (Brand Finance Global Soft Power Index Report) năm 2021, công bố tại “Hội nghị thượng đỉnh 2021 về quyền lực mềm toàn cầu” ngày 25/2/2021, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khối ASEAN được nâng hạng trong bảng xếp hạng quyền lực mềm toàn cầu từ 50/60 lên 47/105 quốc gia được xếp hạng.
đánh giá của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, với mức giảm trung bình là trên 1,4% mỗi năm.
Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ trong xếp hạng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) – cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc. Năm 2021, Việt Nam được WIPO xếp thứ 44 tức nằm trong khoảng tin cậy (từ khoảng 42 đến 47) của thứ hạng này.
Ttheo công bố xếp hạng các nền kinh tế tốt nhất để đầu tư của Tạp chí U.S. News & World Report, Việt Nam xếp thứ 8 trong top 20 nền kinh tế tốt nhất để đầu tư năm 2019, tăng từ vị trí 23 của năm 2018.
Theo dự báo mới nhất ngày 8/8/2022 của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam trong Báo cáo Điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam ấn phẩm tháng 8 năm 2022 với tựa đề “Giáo dục để tăng trưởng”, năm 2022, Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,5% GDP từ 2,6% trong năm 2021 lên 7,5% trong năm 2021 và lạm phát trung bình 3,8%.
Về tổng thể, sau 77 năm kể từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, tuy vẫn còn tồn tại những hạn chế, nhưng nước ta đã đạt được những dấu ấn to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, làm thay đổi căn bản bộ mặt của đất nước.
Những thành tựu đó là kết quả của quá trình dài nỗ lực, bền bỉ và kiên định thực hiện đồng bộ nhiều chính sách cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; sửa đổi các quy định pháp luật; thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng hiện đại, minh bạch, tạo sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho doanh nghiệp và tiệm cận với chuẩn mực quốc tế theo yêu cầu của WTO và các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia…
Đồng thời, thực tế cũng đòi hỏi cần tiếp tục phát huy tinh thần Cách mạng tháng Tám, gia tăng những nỗ lực mới, nhận diện và giải quyết hiệu quả hơn các khó khăn, thách thức, tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu… tạo cộng lực và là động năng mạnh mẽ để giúp Việt Nam phát triển kinh tế bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh vĩ mô và vi mô, nâng cao đời sống người dân và đóng góp vào sự thịnh vượng chung của khu vực và thế giới trong thời kỳ mới