Quan tâm hỗ trợ phụ nữ tiếp cận, thụ hưởng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội

Chia sẻ

(PNTĐ) - Chiều 27/1, đại biểu Hà Thị Nga, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam đã trình bày tham luận "Quan tâm hỗ trợ phụ nữ tiếp cận, thụ hưởng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội". Báo Phụ nữ Thủ đô đăng toàn văn bài tham luận của đồng chí Hà Thị Nga.

 Đại biểu Hà Thị Nga, Chủ tịch Hội LHPN Việt NamĐại biểu Hà Thị Nga, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam (ảnh Phương Hoa)

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt   trận Tổ quốc Việt Nam!

Kính thưa Đoàn Chủ tịch!

Kính thưa Đại hội!

Được sự cho phép của Đại hội, thay mặt Hội LHPN Việt Nam, tôi xin tham luận tại Đại hội với chủ đề “Quan tâm hỗ trợ phụ nữ tiếp cận, thụ hưởng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”.

Thưa Đại hội!

Trước hết, Hội LHPN Việt Nam xin bày tỏ sự thống nhất cao với báo cáo chính trị và các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng thời biểu thị sự vui mừng, phấn khởi khi báo cáo chính trị và phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ tới thể hiện rõ quan điểm bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội nhằm bảo vệ quyền của mỗi người dân. Điều đó khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ ta, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững đất nước. Để góp phần làm rõ hơn nhiệm vụ này trong thời gian tới, đặc biệt là đảm bảo cơ hội tiếp cận các vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội một cách công bằng đối với  phụ nữ, nhất là phụ nữ di cư lao động, phụ nữ nông thôn, phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, nhằm hiện thực hóa phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, với vai trò là tổ chức đại diện cho các tầng lớp phụ nữ, Hội LHPN Việt Nam xin được trình bày, làm rõ thêm 4 vấn đề cụ thể sau:

          Thứ nhất, đảm bảo an sinh xã hội về nhà ở đối với lực lượng lao động nữ di cư

          Người xưa đã tổng kết có an cư thì mới lạc nghiệp. Nhà ở cho người dân luôn là một mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước. Với các chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của người dân, đến nay hầu hết các hộ dân cư đã có nhà để ở. Bên cạnh việc ban hành Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, Chính phủ đã có chủ trương xã hội hóa để hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn cũng có cơ hội được sở hữu nhà ở.

Thưa Đại hội!

Di cư lao động là xu hướng tất yếu hiện nay, gắn với phát triển và có vai trò nhất định đối với kinh tế - xã hội, nhất là trong việc phân bổ lại nguồn lực lao động quốc gia. Tuy nhiên, từ góc độ an sinh xã hội, đang đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt đối với những lao động di cư từ nông thôn ra thành thị. Kết quả điều tra cho thấy, 13,6% dân số  cả nước là người di cư. Trong đó, nữ giới chiếm 55,5%. Hầu hết họ di cư đến làm việc trong các khu công nghiệp, đến thành phố làm các công việc ở khu vực phi chính thức.

Đại biểu nữ tại Đại hội XIIIĐại biểu nữ tại Đại hội XIII

          Đặc biệt, với những người lao động di cư, nhà ở là vấn đề hết sức bức thiết. Theo một thống kê, khoảng 80% công nhân đang phải thuê nhà ở trong các khu nhà trọ xung quanh các khu công nghiệp; số công nhân được ở trong các khu nhà do doanh nghiệp xây dựng chiếm tỷ lệ rất thấp (5%). Đối với nữ lao động di cư (công nhân, người bán hàng rong, lao động ở các chợ đầu mối, giúp việc gia đình, chăm sóc người ốm..v.v...) đều phải thuê nhà trọ. Để giảm chi phí, nhiều người chấp nhận ở chung, phòng trọ rất tạm bợ, chật hẹp (diện tích sử dụng bình quân từ 3 - 4m2 /người). Tình trạng sống chung khác giới, sống chung như vợ chồng cũng đã diễn ra ở nhiều khu nhà trọ, gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội.

            Để đảm bảo quyền có nơi ở, chỗ ở cho mọi người dân, Nhà nước cần coi vấn đề nhà ở là phúc lợi của người dân để có chính sách đầu tư thỏa đáng, từng bước giải quyết về vấn đề nhà ở, trước mắt là cho các gia đình chính sách, người khuyết tật, người có hoàn cảnh khó khăn, người dân tộc thiểu số, người di cư.... Đồng thời tạo cơ hội tiếp cận dịch vụ công về giáo dục, y tế cho con em và gia đình phụ nữ khó khăn, lao động nữ di cư. Bên cạnh đó, rất cần sự chung tay vào cuộc của các doanh nghiệp, của toàn xã hội chia sẻ trách nhiệm cùng với nhà nước. Về mặt nhận thức, phải coi di cư lao động là vấn đề phát triển, các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, địa phương cần tính tới dân số di cư để có thể đảm bảo các chính sách về nhà ở, nhà trẻ, khám chữa bệnh cho người dân phù hợp với những biến đổi dân cư.

          Thứ hai, việc đảm bảo an sinh xã hội cho phụ nữ khi mang thai, sinh con

          Việt Nam được LHQ đánh giá hoàn thành sớm 10 năm trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt tỷ lệ bao phủ gần 89% dân số; 100% người nghèo, người DTTS có thẻ khám chữa bệnh miễn phí; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, phát triển.

Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chế độ thai sản của Việt Nam nằm trong số những nước có tỷ lệ hưởng cao và thời gian nghỉ dài nhất trong khu vực,  quyền lợi tương đối rộng. Tuy nhiên, điều đáng nói là diện bao phủ của chế độ thai sản còn thấp. Thực tế cho thấy, phần lớn phụ nữ không tham gia BH y tế do không tham gia lực lượng lao động, là người làm công ăn lương không chính thức hoặc làm công không hưởng lương.

Đặc biệt, trong số hơn 65% dân cư nước ta sống ở nông thôn, trong đó  khoảng 48,5% là lao động nữ. Họ có mặt ở hầu hết các công việc của quá trình sản xuất, chế biến, kể cả những công việc nặng nhọc và độc hại... ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài tới sức khoẻ, nhất là sức khoẻ sinh sản nhưng họ hầu như không được hưởng các chế độ thai sản.

Đại biểu nữ tại Đại hội XIIIĐại biểu nữ tại Đại hội XIII.

Thưa Đại hội!

          Ở nước ta, đã từng có thời phụ nữ nông thôn sinh con được hỗ trợ thóc, có nhà gửi trẻ, tuy nhiên hiện nay các chính sách liên quan đến mang thai, nuôi con nhỏ chưa vươn tới được đối tượng phụ nữ nông thôn đang làm ở các khu vực phi chính thức, không hưởng lương. Mặc dù hệ thống dịch vụ xã hội và chăm sóc y tế cho người dân nông thôn nói chung, phụ nữ nông thôn nói riêng những năm gần đây đã được cải thiện, nhưng nhiều nơi còn thiếu thốn, thời gian nghỉ ngơi, chế độ dinh dưỡng của phụ nữ trước và sau khi sinh chưa được quan tâm đúng mức khiến cho sức khoẻ người mẹ và trẻ sơ sinh chưa được đảm bảo. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên trình trạng suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt là suy dinh dưỡng thể thấp còi; thiếu máu ở bà mẹ và tỷ suất chết sơ sinh cao.

         Về phía mình, trong tời gian qua, Hội LHPN Việt Nam, đã nỗ lực tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ chủ động nâng cao kiến thức, kỹ năng chăm sóc bản thân khi mang thai, sinh con, tham gia bảo hiểm y tế và đề xuất chính sách cho phụ nữ. Năm 2006, Hội đã chủ trì đề xuất xây dựng và được Quốc hội thông qua Luật Bình đẳng Giới, trong đó có 2 khoản quy định về vấn đề thai sản của phụ nữ. Sau khi có Luật, Hội tiếp tục đề xuất Chính phủ đã ban hành nghị định để luật được thực thi hiệu quả. Năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định số39/2015/NĐ-CP hỗ trợ phụ nữ nghèo dân tộc thiểu số sinh con đúng chính sách. Qua đánh giá 5 năm thực hiện Nghị định số 39/2014/NĐ-CP cho thấy  diện được hưởng chưa nhiều, đến tháng 12/2020, chỉ có khoảng gần 74.000 người được thụ hưởng.

           Thiết nghĩ, việc bảo đảm an sinh xã hội cho phụ nữ mang thai, sinh con, đặc biệt là đối với những người chưa được hưởng chính sách bảo hiểm là vấn đề cần quan tâm theo hướng đảm bảo cho phụ nữ có cơ hội, điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng, nhất là hỗ trợ chế độ thai sản cho phụ nữ. Chính phủ cần đánh giá việc triển khai thực hiện Nghị định 39 để có hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng, giúp mọi phụ nữ sinh con đúng chính sách dân số đều được hưởng sự hỗ trợ của Nhà nước. Bổ sung chế độ thai sản đối với bảo hiểm tự nguyện thông qua các  gói thai sản cho phụ nữ để mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều có thể dễ dàng tham gia, góp phần bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em.

             Thứ ba, việc đảm bảo an sinh xã hội cho phụ nữ nuôi con nhỏ, trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ

              Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Để chăm lo cho trẻ em - tương lai của đất nước, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về vấn đề này.

          Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ GD&ĐT, hiện nay chỉ có 28% trẻ em trong nhóm trẻ dưới 36 tháng tuổi đến trường (nhà trẻ), nguyên nhân có nhiều, trong đó không có nơi để gửi con là một trong những nguyên nhân chủ yếu. Ở những nơi có khu công nghiệp, khu chế xuất đông lao động nhập cư, hệ thống trường mầm non chỉ đáp ứng 44,4% nhu cầu. Hơn một nửa số trẻ trong độ tuổi được gửi vào các nhóm lớp tư thục. Ðiều đáng nói là các cơ sở thuộc loại hình này còn rất nhiều nhược điểm như: cơ sở vật chất chưa bảo đảm theo quy định, chất lượng giáo viên chưa đạt yêu cầu, công tác quản lý, giám sát của chính quyền địa phương chưa chặt chẽ… nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn cho trẻ. Nhiều vụ bạo hành đã xảy ra ở các cơ sở này, gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng niềm tin của xã hội vào ngành giáo dục. Không còn lựa chọn nào khác, nhiều người lao động phải gửi con về quê cho ông bà, người thân trông nom. Và khi phải gửi con về quê tức là quyền “được sống chung với cha mẹ" của trẻ đã không được đảm bảo đầy đủ.

           Từ năm 2015, Hội LHPN Việt Nam đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ, phát triển nhóm trẻ độc lập, tư thục ở khu công nghiệp, khu chế xuất đến 2020” (gọi tắt là Đề án 404). Tuy nhiên, cũng chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ nhu cầu chính đáng của nữ công nhân lao động có con dưới 36 tháng tuổi.

           Không chỉ ở các khu công nghiệp, không chỉ đối với các gia đình di cư lao động, việc gửi con trẻ ở đâu, nhất là trẻ dưới 36 tháng tuổi còn là mối quan tâm chung của rất nhiều gia đình công chức, viên chức ở thành thị. Bởi vậy, Nhà nước cần quan tâm thỏa đáng hơn nữa về vấn đề này. Có cơ chế, chính sách tạo sự công bằng về quyền, trách nhiệm giữa các cơ sở giáo dục mầm non công lập và tư thục (đảm bảo quyền lợi của trẻ, chế độ tiền lương cho giáo viên, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật), tăng biên chế giáo viên cho cơ sở giáo dục mầm non để các cơ sở này có thể triển khai giữ trẻ ngoài giờ. Các địa phương cần tăng cường quản lý, giám sát nhà trẻ, cơ sở mầm non tư thục, kiên quyết xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm pháp luật, không bảo đảm điều kiện, tránh xảy ra sự cố đáng tiếc như trong thời gian vừa qua.

          Thứ tư,việc đảm bảo an sinh xã hội tạo cơ hội có việc làm cho phụ nữ

          Chiếm tỷ lệ trên 50,23% dân số, phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ trong độ tuổi lao động lên đến hơn 66%, cao hơn hẳn so với phần lớn các quốc gia trên thế giới.  

Cuộc CMCN 4.0 tạo ra nhiều cơ hội song cũng tạo ra nhiều thách thức cho lao động nữ Việt Nam. Lực lượng lao động nữ chưa qua đào tạo chiếm số lượng lớn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng, thể lực và tác phong lao động công nghiệp còn hạn chế so với yêu cầu cao của thị trường lao động.

Theo báo cáo năm 2019, còn khoảng 79,5% lao động nữ trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo. Đây là nhóm yếu thế trên thị trường lao động, với tỷ lệ thất nghiệp cao hơn bình quân chung của cả nước, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp. Những vấn đề đó đã tác động rất nhiều đến cuộc sống gia đình, cơ hội phát triển nghề nghiệp và tạo ra bất bình đẳng đối với lao động nữ.

Đại biểu nữ tại Đại hội XIIIĐại biểu nữ tại Đại hội XIII

Điều này cho thấy, để có cơ hội có việc làm thì lao động phải được đào tạo. Đào tạo nghề chính là chìa khóa để phụ nữ mở được cánh cửa việc làm, có thu nhập ổn định. 

Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về đào tạo nghề cho lao động nói chung, lao động nữ nói riêng, thông qua các Chương trình, Đề án của Chính phủ. Tuy nhiên, các Đề án này thời gian đào tạo ngắn, chủ yếu đào tạo trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng, nội dung đào tạo tập trung vào một số lĩnh vực, ngành nghề mang tính giản đơn, chưa tạo ra thay đổi căn bản để người lao động thích ứng được với CM 4.0.

Do vậy, để giúp lao động nữ có cơ hội có việc làm, Nhà nước cần đảm bảo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng và thực thi các chính sách đào tạo nghề, có chính sách đào tạo nghề riêng cho phụ nữ, có các giải pháp hỗ trợ, bảo đảm cho nữ có cơ hội lựa chọn ngành nghề đúng với năng lực, sở trường. Phát triển các dịch vụ gia đình như chăm sóc người già, trẻ em...giúp phụ nữ có cơ hội được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng. Có như vậy mới góp phần tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao như văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra.

 Có thể nói, tình hình mới đang tạo ra nhiều cơ hội song cũng tạo ra không ít thách thức cho phụ nữ. Những thách thức ấy, nếu được quan tâm giải quyết sẽ tác động tích cực trong việc cải thiện địa vị của người phụ nữ trong vai trò người mẹ, người lao động và người công dân.

Kính thưa toàn thể Đại hội!

          Qua nghiên cứu và từ những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, thay mặt cho phụ nữ cả nước, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trân trọng đề nghị Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách có lồng ghép giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ nói chung, đặc biệt là phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, phụ nữ nông thôn, phụ nữ di cư, phụ nữ dân tộc thiểu số có cơ hội được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội. Đặc biệt, cần coi đây là vấn đề nền tảng phúc lợi, là ưu việt mà chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại cho mỗi người dân để từng bước quan tâm giải quyết.         

         Thực hiện trách nhiệm của mình, Hội LHPN Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực phối hợp các bộ, ngành chức năng cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước, xây dựng, thực hiện các đề án, chương trình, các chính sách an sinh xã hội liên quan đến phụ nữ, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra.

Kính chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc! Chúc Đại hội thành công tốt đẹp!

Xin trân trọng cảm ơn!

BÁO PHỤ NỮ THỦ ĐÔ

 

Tin cùng chuyên mục

Người lao động được lương bao nhiêu khi đi làm dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5?

Người lao động được lương bao nhiêu khi đi làm dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5?

(PNTĐ) - Dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5, người lao động đi làm thêm thì được tính tiền lương làm thêm giờ. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động làm thêm dịp nghỉ lễ, Tết hoặc ngày nghỉ có hưởng lương, được trả lương ít nhất bằng 300% so với lương ngày làm việc bình thường. Người lao động làm thêm ban đêm, được trả ít nhất 390% lương, so với lương ngày làm việc bình thường.