Đổi mới sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa – đòn bẩy phát triển văn hóa và con người Việt Nam thời kỳ mới
(PNTĐ) - Thời kỳ mới với đặc trưng là hội nhập quốc tế sâu rộng và sự bùng nổ của công nghệ đặt ra yêu cầu phải thay đổi căn bản cách tiếp cận đối với di sản văn hóa. Bảo tồn truyền thống không còn là việc “giữ nguyên trạng”, “tĩnh tại và đông cứng”, mà phải là quá trình đổi mới sáng tạo để di sản trở nên sống động, hấp dẫn và phải tạo ra được giá trị mới: việc áp dụng tư duy sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa chính là chìa khóa để biến di sản thành nguồn lực nội sinh mạnh mẽ, thúc đẩy phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam toàn diện.
Định hướng lớn nêu trên cũng đã từng bước được thể hiện trong nội dung các Nghị quyết của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ 12 định hướng (hay mục tiêu) phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, trong đó có định hướng thứ 4 đã khẳng định “phát triển con người toàn diện và xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”.
Một trong những nội dung cần góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đăng trên báo Nhân Dân, phần liên quan tới văn hóa có ghi rõ về “phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và xây dựng con người Việt Nam”; “xây dựng, thực hiện và phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam”; “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc”.

Vấn đề đặt ra là, chúng ta cần đổi mới sáng tạo như thế nào trong bảo tồn di sản văn hóa góp phần thực hiện các mục tiêu cao đẹp nêu ra ở trên. Thực tế cho thấy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và bùng nổ công nghệ, đổi mới sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa có khả năng mang lại những đóng góp to lớn sau đây.
Thứ nhất, tác động đột phá lên chiến lược phát triển bằng sự kết hợp giữa di sản và đổi mới sáng tạo tạo ra những đột phá mạnh mẽ cho phát triển văn hóa:
(1) Góp phần xây dựng nền tảng văn hóa tiên tiến qua công nghệ (công nghệ số hoá giúp di sản được giới thiệu một cách toàn diện, đa chiều và dễ tiếp cận hơn bao giờ hết). Điều này giúp tăng cường sự hiểu biết, minh bạch và dân chủ hóa văn hóa. Sáng tạo trong bảo tồn giúp tái tạo các yếu tố văn hóa truyền thống, sáng tạo các giá trị mới, xác lập thương hiệu quốc gia;
(2) Thúc đẩy sáng tạo và phát triển công nghiệp văn hóa bền vững (các di tích lịch sử, làng nghề, thiết kế văn hóa có thể trở thành các “phòng thí nghiệm sáng tạo”/ không gian thúc đẩy sáng tạo, nơi các nghệ nhân truyền thống có thể hợp tác với các nhà thiết kế, lập trình viên trẻ, tạo ra hệ sinh thái phát triển với việc hình thành các doanh nghiệp xã hội và khởi nghiệp văn hóa dựa trên các di sản được bảo tồn bền vững. Một khu di sản tự tạo ra sinh kế và nguồn thu, nó sẽ trở nên bền vững về tài chính, giảm gánh nặng cho ngân sách và thúc đẩy văn hóa thực sự là động lực phát triển.

Thứ hai, bảo tồn bền vững di sản góp phần nâng tầm con người Việt Nam bằng tinh thần đổi mới. Đổi mới sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa có tác dụng sâu sắc trong việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, tự tin vào bản lĩnh:
(1) Bồi dưỡng lòng tự hào đi đôi với tư duy mở thông qua kết nối thế hệ. Sử dụng công nghệ thành cầu nối giúp thế hệ trẻ cảm thấy di sản gần gũi và thú vị, từ đó tự nguyện học hỏi và tham gia bảo tồn di sản văn hóa. Lòng tự hào dân tộc được củng cố bằng phương tiện hiện đại; khuyến khích tư duy phản biện và sáng tạo thông qua việc giải mã, phục dựng, tu bổ và phát huy giá trị di sản, tuổi trẻ sẽ học được phương pháp tư duy hệ thống, khoa học và khả năng giải quyết vấn đề sáng tạo, giúp rèn luyện phẩm chất, kỹ năng sống của con người thời kỳ cách mạng 4.0;
(2) Hình thành nhân cách tích cực và có trách nhiệm. Xây dựng Ý thức cộng đồng mỗi khi tham gia vào các dự án bảo tồn di sản thông qua nền tảng số hoặc cộng đồng giúp đỡ cá nhân nâng cao trách nhiệm xã hội, không chỉ với gia đình, 158- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC tổ quốc mà còn đối với di sản của nhân loại; ứng dụng công nghệ trong bảo tồn còn giúp cộng đồng được trải nghiệm thực tế ảo hoặc tương tác trực tiếp qua phương tiện công nghệ hiện đại, từ đó việc giáo dục đạo đức, nhân cách sẽ có hiệu quả và tạo ấn tượng sâu sắc hơn.
Thứ ba, đổi mới sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa cần có sự hậu thuẫn của công nghệ số. Công nghệ tiên tiến trợ lực cho việc giải quyết những vấn đề đặt ra trong yêu cầu bảo tồn di sản văn hóa:
(1) Công nghệ số cho phép lập bản đồ di sản, tạo mô hình tham quan ảo và phục dựng các giá trị văn hóa phi vật thể đang có nguy cơ bị mai một (tạo cơ sở dữ liệu về di sản). Đây là cách bảo tồn vĩnh cửu và phổ biến nhất;
(2) Công nghệ hỗ trợ chuyển từ mô hình bảo tồn bằng ngân sách Nhà nước sang mô hình kinh tế di sản sáng tạo. Di sản trở thành trung tâm để hình thành các chuỗi giá trị kinh tế mới (du lịch di sản, công nghiệp văn hóa);
(3) Công nghệ cho phép sử dụng mạng xã hội và các nền tảng số để thu hút thế hệ trẻ tham gia vào quá trình bảo tồn, biến họ từ người thụ hưởng thụ động thành chủ thể tích cực trong việc bảo vệ và làm giàu di sản.

Thứ tư, đổi mới sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa yêu cầu phải có những giải pháp mang tính đột phá. Để bảo tồn di sản thực sự trở thành nguồn lực phát triển cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:
(1) Đổi mới nhận thức và cơ chế, chính sách: thực hiện nhất quán quan điểm bảo tồn gắn với phát triển hay bảo tồn trong sự phát triển tiếp nối. Xây dựng cơ chế đột phá khuyến khích xã hội hóa và thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào bảo tồn và phát huy giá trị di sản dưới hình thức “hợp tác công – tư trong bảo tồn di sản văn hóa”;
(2) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong bảo tồn di sản văn hóa: xây dựng ngân hàng dữ liệu số quốc gia về di sản, xây dựng VR/AR để quảng bá, giáo dục di sản một cách hấp dẫn, đặc biệt là giới trẻ. Ứng dụng công nghệ để xây dựng hồ sơ về các di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một;
(3) Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng: đặt con người là trung tâm các hoạt động bảo tồn. Đề cao vai trò của nghệ nhân và cộng đồng địa phương, tạo điều kiện để họ trở thành chủ thể chính trong việc quản lý và thụ hưởng lợi ích từ di sản. Đưa giáo dục di sản vào các chương trình chính khóa và ngoại khóa của các trường học, cơ sở đào tạo, biến di sản thành nội dung giáo dục thường xuyên trong văn hóa gia đình và văn hóa học đường.
Tóm lại, bảo tồn di sản văn hóa là mệnh lệnh của lịch sử và là chìa khóa cho sự thịnh vượng bền vững. Bằng cách đổi mới sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa, Việt Nam không chỉ giữ được “căn cước văn hóa” của mình mà còn tạo ra nguồn lực nội sinh vô tận, đảm bảo rằng văn hóa và con người Việt Nam sẽ trở thành sức mạnh mềm vững chắc, giúp đất nước phát triển, giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới.
PGS, TS Đặng Văn Bài- Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia










