CÁC THÀNH TỐ GIA ĐÌNH:

Cuốn tư liệu về giới tính, chính quyền và xã hội ở Việt Nam thời kỳ cận đại

LINH DƯƠNG
Chia sẻ

(PNTĐ) - Cuốn sách là công trình nghiên cứu của GS. Trần Tuyết Nhung (đoạt Giải thưởng Anthony M. Clark Rome trong hạng mục Nghiên cứu thời Phục hưng và Cận đại, do Viện hàn lâm Hoa Kỳ tại Rome (AAR) trao tặng), khởi đầu series giới thiệu công trình nổi bật của các nhà nghiên cứu Việt Nam đương đại đang làm việc ở các trường Đại hoc và trung tâm nghiên cứu lớn trên thế giới.

Trước nay, khi đề cập đến địa vị xã hội của người phụ nữ Việt Nam, thường có nhận định cho rằng vốn dĩ phụ nữ Việt (Kinh) được hưởng sự bình đẳng giới từ xưa trong xã hội và điều này được thể hiện qua một số điểm ghi trong các bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký và trong các văn bản luật thời Lê, Mạc (Quốc triều Hình luật hay Lê triều Hình luật, và Hồng Đức thiện chính thư) trước khi nhà Nguyễn thành lập; và vấn đề gia trưởng hay thừa kế theo phụ hệ (dòng cha), sự bất bình đẳng giới chỉ mới trở thành một hiện tượng xã hội áp đảo kể từ khi nhà Nguyễn thành lập và tiến hành áp dụng triệt để các cải cách Tân Nho dựa theo mô hình quân chủ Trung Hoa.

Cuốn tư liệu về giới tính, chính quyền và xã hội ở Việt Nam thời kỳ cận đại - ảnh 1

Cuốn sách Các thành tố gia đình: Giới tính, chính quyền và xã hội ở Việt Nam thời kỳ cận đại, 1463-1778 của tác giả Trần Tuyết Nhung gồm 6 chương, phân tích các nội dung:

GS Trần Tuyết Nhung là giáo sư ngành Lịch sử Đông Nam Á học tại Đại học Toronto. Được đào luyện ở Đại học Pennsylvania và UCLA, mối quan tâm nghiên nghiên cứu của bà nằm ở sự giao thoa giữa 3 chủ đề: giới tính, pháp luật và tôn giáo ở Đông Nam Á thời cận đại.

Ngoài Familial Properties (Các thành tố gia đình), bà còn là đồng chủ biên tác phẩm Viet Nam: Borderless Histories (Việt Nam: Lịch sử không biên giới) và hiện đang trong quá trình thực hiện hai cuốn sách về lịch sử văn hoá của Công giáo Việt Nam và sự chuyển hoá ý niệm tài sản ở Việt Nam thời cận đại.

Chương 1, “Nêu rõ hệ thống giới tính: Kinh tế, xã hội và nhà nước”, tác giả lần theo cách thức mà các chính quyền nhà nước đã hình dung ra một hệ thống giới nhấn mạnh vào quy định phù hợp cho nữ giới ngay từ khi còn bé, và tác động của sự chênh lệch về kinh tế và xã hội đã tạo cơ hội cho phụ nữ giành quyền tự chủ ra sao.

Chương 2, “Những người vợ hiền, những người mẹ dưỡng dục con cái và những đứa con hiếu thảo: Hôn nhân là việc của nhà nước, làng xã và gia đình”, khảo sát điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân của phụ nữ Việt Nam vượt qua các ranh giới về giai cấp.

Chương 3, “Thân xác phụ nữ, các hoạt động quan hệ tình dục và trật tự chính trị xã hội”, chỉ rõ luật pháp nhà nước, phong tục địa phương và trật tự chính trị có mối liên hệ mật thiết với quy định về hoạt động tính dục của nữ giới ra sao.

Chương 4, “Quyền thừa kế, quyền kế vị và quyền tự chủ trong chế độ tài sản”, xem xét cách thức mà chế độ tài sản trở thành một luận điểm tranh cãi về những nỗ lực của nhà nước nhằm chính thức hóa quyền kế vị theo dòng dõi và quyền phân chia tài sản ngang bằng nhau cho những người thừa kế nam.

Chương 5, “Tục mua hậu: Chuẩn bị cho thế giới bên kia sau khi chết”, tìm hiểu cách thức chuyển giao tài sản riêng cho các cơ sở công cộng đã giúp phụ nữ đảm bảo rằng họ sẽ không trở thành những vong linh bất hạnh.

Trong chương cuối, “Tầm nhìn trong tương lai và những công trình của quá khứ: Những hình mẫu về phụ nữ Việt Nam”, tác giả đặt nghiên cứu của mình trong bối cảnh tranh luận rộng lớn hơn về giới tính ở Việt Nam và Đông Nam Á.

Các thành tố gia đình: Giới tính, chính quyền và xã hội ở Việt Nam thời kỳ cận đại, 1463-1778 thách thức sự khẳng định cho rằng điều kiện xã hội của phụ nữ Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 đã phản ánh các giá trị truyền thống đích thực. Nó cũng nhằm nghiên cứu xem giới tính đóng vai trò trung tâm thế nào đối với sự phân chia quyền lực trong xã hội miền Bắc Việt Nam trong suốt các triều đại Lê và Mạc.

Ý kiến bạn đọc

Tin cùng chuyên mục

“Điềm báo mệnh trời” và “Tiếng hát non sông“: Chùm thơ dâng Tổ quốc nhân dịp 80 năm Quốc khánh

“Điềm báo mệnh trời” và “Tiếng hát non sông“: Chùm thơ dâng Tổ quốc nhân dịp 80 năm Quốc khánh

(PNTĐ) - Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9, nhà thơ Nguyễn Xuân đã sáng tác hai bài thơ “Điềm báo mệnh trời” và “Tiếng hát non sông”. Một bài ghi lại khoảnh khắc xúc động khi một em bé cất tiếng khóc chào đời đúng ngày 2/9, như một điềm lành gửi tới vận nước; một bài là khúc hát tự hào, nhìn lại chặng đường 80 năm dựng xây và trưởng thành của dân tộc. Hai mạch cảm xúc riêng hòa chung trong chùm thơ giản dị mà tha thiết, như lời tri ân Tổ quốc và niềm tin vào tương lai.
“Con đã về với Mẹ!” - Lời thơ từ 40 năm chờ đợi

“Con đã về với Mẹ!” - Lời thơ từ 40 năm chờ đợi

(PNTĐ) - Bài thơ “Con đã về với Mẹ!” của Nguyễn Xuân tưởng nhớ liệt sĩ Nguyễn Đình Long (1960 - 1984), hy sinh tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang. Sau bốn mươi năm, anh được đồng đội đưa về trong vòng tay người mẹ nay 105 tuổi - Mẹ Việt Nam Anh hùng Thái Thị Yêm. Những câu chữ mộc mạc gợi nỗi mong đợi và biết ơn.
Phụ nữ Ngọc Hà – Nụ cười tự hào ngày hội non sông

Phụ nữ Ngọc Hà – Nụ cười tự hào ngày hội non sông

(PNTĐ) - Nhân dịp Tết Độc lập, chị Nghiêm Thúy Trang, cán bộ Hội LHPN phường Ngọc Hà đã xúc động sáng tác bài thơ gửi tặng những người phụ nữ Ngọc Hà với những công việc thầm lặng nơi tuyến sau, góp phần vào thành công của Đại lễ 2/9. Gửi bài thơ tới báo Phụ nữ Thủ đô, tác giả muốn được lan tỏa hình ảnh người phụ nữ Ngọc Hà trong Đại lễ "Trung hậu-Sáng tạo- Đảm đang- Thanh lịch", nhiệt huyết, nghĩa tình với biết bao hành động đẹp. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc:
“Hồ Chí Minh - Tiểu sử bằng hình”: Ấn phẩm đặc biệt nhân dịp 80 năm Quốc khánh

“Hồ Chí Minh - Tiểu sử bằng hình”: Ấn phẩm đặc biệt nhân dịp 80 năm Quốc khánh

(PNTĐ) - Nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, đồng thời tưởng nhớ 135 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Công ty Cổ phần Văn hóa Đông A phối hợp cùng Nhà xuất bản Đại học Sư phạm cho ra mắt ấn phẩm “Hồ Chí Minh - Tiểu sử bằng hình”.