Đề nghị Chính phủ giao Bộ GD&ĐT xây dựng bộ sách giáo khoa điện tử
(PNTĐ) - Liên quan đến sách giáo khoa, đại biểu Dương Minh Ánh (đoàn Hà Nội) đề nghị Chính phủ giao Bộ GD&ĐT nghiên cứu xây dựng bộ sách giáo khoa điện tử (digital textbooks) như các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến như Phần Lan, Nhật Bản, Mỹ, Estonia… với lộ trình thực hiện vào năm 2030.
Chế độ, chính sách cho người học các ngành văn hoá nghệ thuật đặc thù
Đại biểu Dương Minh Ánh nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa và Xã hội và đồng tình với sự cần thiết ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (GD&ĐT).

Góp ý về Điều 3 - Hợp tác phát triển chương trình giáo dục, đại biểu đồng tình với chủ trương Bộ GD&ĐT quyết định một bộ sách giáo khoa (SGK) thống nhất toàn quốc và hoàn thành cung cấp miễn phí SGK cho học sinh vào năm 2030. Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách còn hạn chế, đại biểu đề nghị Chính phủ nghiên cứu kỹ đối tượng được miễn phí SGK và xem xét áp dụng hình thức mượn SGK qua thư viện trường học thay vì cấp miễn phí mỗi năm một bộ SGK mới. Cách làm này tránh lãng phí khi nhiều bộ sách sau một năm sử dụng bị bỏ đi.
Đại biểu đề nghị Chính phủ giao Bộ GD&ĐT nghiên cứu xây dựng bộ SGK điện tử (digital textbooks) như các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến như Phần Lan, Nhật Bản, Mỹ, Estonia… với lộ trình thực hiện vào năm 2030. Việc triển khai SGK điện tử mang lại nhiều lợi ích: Phù hợp định hướng chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo theo tinh thần Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị: xây dựng giáo dục thông minh, SGK – giáo trình thông minh, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, phát triển trường học số, lớp học thông minh.
Về tăng công bằng giáo dục, thu hẹp chênh lệch giữa vùng miền trong tiếp cận công nghệ thông tin, phù hợp xu thế giáo dục toàn cầu.
Về hiệu quả kinh tế lâu dài, mặc dù cần đầu tư ban đầu về hạ tầng số, biên soạn SGK điện tử và thiết bị học tập như iPad, nhưng về lâu dài sẽ tiết kiệm chi phí in ấn, vận chuyển, lưu kho, giảm gánh nặng tài chính cho ngân sách và phụ huynh. Đại biểu nhắc lại kinh nghiệm tích cực từ chương trình “Sóng và máy tính cho em” năm 2021 - đã cung cấp hàng triệu thiết bị và kết nối Internet cho học sinh trong bối cảnh Covid-19.
Về lợi ích giáo dục, SGK điện tử dễ cập nhật nội dung mới, tích hợp đa phương tiện (hình ảnh, video, bài tập tương tác), tạo hứng thú và tăng khả năng tập trung của học sinh; giúp học sinh học mọi lúc, mọi nơi có Internet; giảm gánh nặng cặp sách. Đồng thời, yêu cầu đội ngũ giáo viên phải nâng cao năng lực công nghệ, đổi mới phương pháp giảng dạy.
Từ các phân tích trên, đại biểu đề nghị Chính phủ sớm nghiên cứu và xây dựng lộ trình triển khai SGK điện tử cho học sinh phổ thông trong thời gian tới, nhằm tạo đột phá thực chất trong đổi mới giáo dục.
Góp ý về chính sách đặc thù đối với các lĩnh vực VHNT, thể thao thành tích cao và các ngành đào tạo đặc thù, đại biểu Dương Minh Ánh nhất trí với việc quy định các cơ chế, chính sách đặc thù đối với văn hóa, nghệ thuật, thể thao thành tích cao, đào tạo chuyên sâu lĩnh vực sức khỏe và các ngành đặc thù khác như trong dự thảo Nghị quyết.
Tuy nhiên, từ thực tiễn công tác trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật (VHNT), đại biểu nêu rõ tình trạng thiếu trầm trọng nguồn nhân lực ở nhiều nhóm ngành như sáng tác âm nhạc, lý thuyết âm nhạc, chỉ huy hợp xướng, điêu khắc, kịch múa, múa dân gian, chèo, tuồng, cải lương, kịch Huế, xiếc, tạp kỹ… Mặc dù Nhà nước đã có chính sách học bổng và ưu tiên, nhưng nhiều năm vẫn không tuyển sinh được. Các nguyên nhân gồm: thiếu vị trí việc làm (biên chế tại các nhà hát bị thu hẹp), thiếu cơ chế ưu tiên trong tuyển dụng, thu nhập thấp không đảm bảo đời sống văn nghệ sĩ, vận động viên.
Qua nghiên cứu dự thảo Nghị quyết và các dự thảo Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, đại biểu cho rằng các văn bản này chưa có chính sách đủ cụ thể để giải quyết vấn đề nhân lực VHNT.
Do đó, đại biểu Dương Minh Ánh đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, thể chế hóa các chính sách cho người học và người làm VHNT, bao gồm: Chế độ, chính sách cho người học các ngành VHNT đặc thù. Cơ chế đặt hàng đào tạo đối với các ngành khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu. Chính sách ưu tiên tuyển dụng trong lĩnh vực VHNT. Quan tâm điều chỉnh tiền lương và phụ cấp nghề để thu hút đội ngũ văn nghệ sĩ trong thời gian tới.
Đãi ngộ đúng không chỉ vì người thầy
Với tư cách một nhà giáo, Giáo sư Hoàng Văn Cường (Đoàn Hà Nội) bày tỏ sự vui mừng khi nghị quyết cụ thể hóa Nghị quyết 71 về giáo dục và đào tạo đã đặt ngành giáo dục vào đúng vị trí, coi đây là lĩnh vực “quyết định đến tương lai hiện tại của đất nước”. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh nghị quyết của Quốc hội phải thể chế hóa chính sách ở mức không được thấp hơn những định hướng mà nghị quyết của Đảng đã đề ra, đồng thời phải tạo ra cơ chế thật sự đột phá, đồng bộ từ chủ trương tới luật và các chính sách cụ thể.

Đại biểu Hoàng Văn Cường đánh giá rất cao chủ trương giao cho ngành giáo dục và đào tạo trực tiếp tổ chức tuyển dụng, quản lý đội ngũ nhà giáo trong đơn vị của mình thay vì giao cho cơ quan nội vụ như trước.
Theo đại biểu, Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan hiểu rõ nhất nhu cầu từng trường, từng môn học, nên việc trao quyền tuyển dụng tập trung cho Sở là “một đột phá rất lớn”. Cơ chế mới tạo mặt bằng chất lượng chung cho đội ngũ giáo viên giữa các trường, các địa phương; đồng thời khắc phục tình trạng nơi thừa, nơi thiếu nhưng không điều động được. Ứng viên giáo viên cũng không phải “chạy đi chạy lại” nộp hồ sơ ở nhiều huyện, mà chỉ cần qua một đầu mối tuyển dụng để được phân bổ hợp lý. Giáo sư khẳng định, nếu thực hiện tốt, cơ chế này có thể đảm bảo đủ giáo viên, không còn cảnh chỗ thừa chỗ thiếu như lâu nay.
Về chính sách đối với nhà giáo, ông ghi nhận nghị quyết đã thể chế hóa tinh thần trước đây, gồm phụ cấp 70% cho giáo viên mầm non, phổ thông và 30% cho cán bộ quản lý, nhân viên ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Đại biểu cho biết đã rất xúc động khi nhắc đến hình ảnh cô giáo vùng cao “hy sinh tất cả”, gùi gạo, gùi rau lo cho học sinh nội trú nhưng chưa được đãi ngộ tương xứng. Theo đại biểu, đãi ngộ đúng không chỉ vì người thầy mà còn tạo sự tôn trọng, nâng cao trách nhiệm từ xã hội và người học.
Giáo sư cũng phân tích tính đặc thù của nghề giáo. Ông nêu ví dụ bác sĩ sau giờ làm có thể khám cho bệnh nhân tại cơ sở tư nhân, nhưng giáo viên nếu dạy thêm chính học sinh của mình với nội dung trên lớp lại dễ bị coi là vi phạm. Vì vậy, bên cạnh ưu đãi, Luật nhà giáo cần có cơ chế giám sát chặt chẽ về đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, tương xứng với vị thế đặc biệt của nhà giáo.
Liên quan đến sách giáo khoa, đại biểu Hoàng Văn Cường bày tỏ lo ngại trước ý tưởng giao Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức viết và cung cấp một bộ sách thống nhất toàn quốc. Theo đại biểu, nếu Bộ vừa quản lý, vừa viết một “bộ sách hiệu” để đưa vào giảng dạy, bộ sách ấy dễ trở thành “kinh điển”, khiến tất cả bám vào, từ đó triệt tiêu tư duy mới và sáng tạo - điều hệ thống giáo dục đang rất cần.
Đại biểu dẫn chứng học sinh Việt Nam thông minh nhưng khả năng sáng tạo không cao, một phần do cách dạy - học nặng khuôn mẫu. Nếu quay lại mô hình một bộ sách “chuẩn”, nguy cơ này càng lớn. Đại biểu Hoàng Văn Cường đề xuất Bộ có thể tổ chức cung cấp một bộ sách như phương tiện học tập thống nhất, kể cả qua tủ sách dùng chung, nhưng không nên viết và áp đặt một bộ sách duy nhất cho cả nước.
Về nguồn lực, giáo sư nhắc rằng Nghị quyết 71 có chỉ tiêu tối thiểu về chi ngân sách cho giáo dục, bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư. Tuy nhiên, trong dự thảo nghị quyết lần này, ông chưa thấy quy định rõ các chỉ tiêu như tỷ lệ tối thiểu cho chi đầu tư hoặc cho chuyển đổi số. Theo đại biểu, phần lớn chi thường xuyên hiện nay chỉ đủ để trả lương, trong khi đội ngũ giáo viên chiếm khoảng 70% người hưởng lương từ ngân sách, khiến gần như không còn dư địa cho đầu tư nâng cao chất lượng. Do đó, đại biểu đề nghị nghị quyết cần nêu rõ tỷ lệ tối thiểu dành cho đầu tư, trong đó có chuyển đổi số.
Đại biểu đánh giá chuyển đổi số là yêu cầu rất quan trọng. Hiện thông tin người học do các cơ sở giáo dục quản lý nhưng thiếu hệ thống thống nhất toàn quốc. Nếu xây dựng hệ thống công nghệ thông tin chung, chỉ trong một ngày có thể biết số học sinh nhập học, số người tốt nghiệp, đang làm việc ở đâu. Các cơ sở giáo dục có thể dùng phần mềm riêng để quản trị nội bộ, nhưng dữ liệu cốt lõi phải được kết nối vào hệ thống chung, tạo cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ quản lý và hoạch định chính sách.

Đại biểu Hoàng Văn Cường đánh giá rất tích cực là chính sách đào tạo tiến sĩ. Đại biểu “rất mừng” khi nghị quyết đề cập lựa chọn nghiên cứu sinh được cấp học bổng, miễn học phí để toàn tâm cho nghiên cứu - điều đem lại chất lượng cao cho nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng cần đổi mới cơ chế theo hướng gắn đào tạo tiến sĩ với nhiệm vụ khoa học cụ thể.
Ở nhiều nước, cơ sở đào tạo lựa chọn đề tài, giao nhiệm vụ và quy định rõ sản phẩm cuối cùng. Từ đó, trường phân chia phần việc cho nghiên cứu sinh. Nếu hoàn thành, họ được bảo vệ luận án; nếu không, phải chấp nhận rủi ro.
Theo đại biểu, thay vì để nghiên cứu sinh tự “tìm đề tài”, dễ dẫn đến nghiên cứu không gắn thực tiễn, Nhà nước cần giao nhiệm vụ khoa học cho cơ sở đào tạo, cấp kinh phí theo nhiệm vụ. Trường sẽ cấp học bổng, hỗ trợ nghiên cứu sinh thực hiện phần việc được giao. Khi các nhiệm vụ nối tiếp hoàn thành, sẽ hình thành các công trình nghiên cứu chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển.










