Góp ý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ:
Tránh tình trạng “thổi giá” hoặc “ảo hóa” giá trị tài sản trí tuệ
(PNTĐ) - Sáng 5/11, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ 1 - Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội góp ý vào Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
Tránh tình trạng “thổi giá” hoặc “ảo hóa” giá trị tài sản trí tuệ
Bày tỏ sự đồng tình và đánh giá cao tinh thần đổi mới, tính kịp thời và tầm nhìn dài hạn của Dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh: Bản Dự thảo lần này đã thể hiện rõ quyết tâm cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 57 về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân; và Nghị quyết số 66 về hoàn thiện thể chế pháp luật trong kỷ nguyên số. Có thể nói, đây là bước chuyển rất quan trọng, khi Dự thảo đã thay đổi tư duy tiếp cận - từ “bảo hộ quyền” sang “khai thác giá trị”, coi tài sản trí tuệ không chỉ là công cụ pháp lý, mà là một nguồn lực kinh tế, một động lực cho đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.

Theo đại biểu, Dự thảo có nhiều điểm mới tích cực như mở rộng phạm vi bảo hộ sang tài sản phi vật lý, bổ sung cơ chế tài chính hóa quyền sở hữu trí tuệ, tăng cường chuyển đổi số trong quản lý, và bước đầu đặt nền tảng pháp lý cho việc khai thác dữ liệu, trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, để bảo đảm tính minh bạch, khả thi và phù hợp với thông lệ quốc tế, đại biểu nêu ba nhóm góp ý cụ thể.
Về khái niệm “sản phẩm phi vật lý” trong kiểu dáng công nghiệp, theo đại biểu, việc bổ sung quy định này là rất cần thiết, phù hợp với xu thế quốc tế khi các sản phẩm số như giao diện phần mềm, biểu tượng ứng dụng hay mô hình 3D đang trở thành đối tượng có giá trị thương mại cao.
Ví dụ, giao diện người dùng của điện thoại thông minh hay thiết kế màn hình điều khiển trong xe điện đều là tài sản trí tuệ có thể mang lại doanh thu hàng tỷ đô la.
Tuy nhiên, cụm từ “phi vật lý” trong dự thảo hiện còn khá chung chung, có thể dẫn đến chồng lấn với khái niệm “tác phẩm mỹ thuật ứng dụng”.
Vì vậy, đại biểu đề nghị làm rõ nội hàm khái niệm này trong Điều 4 hoặc trong Nghị định hướng dẫn theo hướng: “Sản phẩm phi vật lý là sản phẩm được thể hiện và tương tác trong môi trường kỹ thuật số, có công dụng, tính năng xác định và có thể nhìn thấy trong quá trình sử dụng.”
Theo đại biểu Nguyễn Thị Lan, việc làm rõ này vừa giúp bảo đảm tính thống nhất với Luật Giao dịch điện tử 2023, vừa tương thích với hướng dẫn của WIPO và Liên minh châu Âu về thiết kế số. Khi đó, pháp luật sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng, bảo vệ được sáng tạo trong môi trường số và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào các sản phẩm công nghệ mang giá trị quốc tế.
Về tài chính hóa quyền sở hữu trí tuệ, một điểm đột phá quan trọng trong Dự thảo khi cho phép quyền SHTT được định giá, góp vốn, huy động vốn hoặc thế chấp. Đây là bước đi rất tiến bộ, bởi trong nền kinh tế tri thức, giá trị của tài sản trí tuệ thường chiếm hơn 70% tổng giá trị doanh nghiệp. Thương hiệu, sáng chế, bí quyết kỹ thuật là “vàng mềm” của nền kinh tế.
Dự thảo cũng đã đề cập việc Chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trị quyền SHTT, đây là hướng đi cần thiết để hình thành thị trường tài sản trí tuệ minh bạch. Tuy nhiên, để quy định này đi vào thực tiễn, đại biểu kiến nghị cần làm rõ hai điểm.
Phân định rõ trường hợp được tự định giá và trường hợp bắt buộc phải định giá độc lập và cần sớm ban hành tiêu chí, quy trình và cơ chế giám sát việc định giá, tránh tình trạng “thổi giá” hoặc “ảo hóa” giá trị tài sản trí tuệ.
Đại biểu dẫn ví dụ, kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore cho thấy, việc xây dựng sàn giao dịch và hệ thống định giá minh bạch không chỉ giúp thương mại hóa sáng chế, mà còn thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình này, gắn với cơ sở dữ liệu định giá mà Dự thảo đã đề cập.
Về việc cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng, quy định tại Điều 183, theo đại biểu, trong bối cảnh công nghệ sinh học và chỉnh sửa gen đang phát triển nhanh, nhiều giống cây mới được tạo ra bằng kỹ thuật hiện đại như CRISPR hoặc nuôi cấy mô. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật của chúng ta chưa có quy định riêng để thẩm định và bảo hộ nhóm giống cây này.
Do đó, đại biểu Nguyễn Thị Lan đề nghị bổ sung quy định về cơ chế thẩm định và tiêu chuẩn kỹ thuật đối với giống cây được tạo ra bằng công nghệ sinh học, đồng thời cho phép công nhận kết quả khảo nghiệm quốc tế để rút ngắn thời gian cấp bằng.
Theo Công ước UPOV 1991 mà Việt Nam đã là thành viên, các nước đều đã mở rộng bảo hộ cho giống cây có nguồn gốc công nghệ gen nếu đáp ứng ba tiêu chí: khác biệt, đồng nhất và ổn định.
"Dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi) lần này thể hiện tầm nhìn chiến lược, coi tri thức là tài sản và sở hữu trí tuệ là động lực phát triển. Nếu được hoàn thiện theo hướng rõ ràng, khả thi và phù hợp với chuẩn mực quốc tế, Luật này sẽ không chỉ bảo vệ quyền của người sáng tạo, mà còn tạo điều kiện để các ý tưởng, sáng chế, thương hiệu của Việt Nam được thương mại hóa, định giá và lan tỏa ra thị trường khu vực và toàn cầu."- đại biểu nhấn mạnh.
Đại biểu tin rằng, khi Luật đi vào cuộc sống, Việt Nam sẽ thực sự chuyển từ “bảo hộ quyền” sang “khai thác giá trị” của tài sản trí tuệ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên kinh tế tri thức.
Bổ sung là nguyên tắc trách nhiệm của nền tảng AI và nền tảng số xuyên biên giới

Góp ý vào dự án Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, đại biểu Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh: Chúng ta sửa luật trong thời điểm mà văn hóa không chỉ tồn tại trên sân khấu hay trang sách, mà đang lan tỏa mạnh mẽ trên nền tảng số, được số hóa bằng dữ liệu, và thậm chí được tái tạo bởi trí tuệ nhân tạo. Mỗi thông tin, mỗi giai điệu, mỗi hình ảnh giờ đây có thể đi khắp thế giới chỉ trong vài giây - và cũng có thể bị đánh cắp, bóp méo hoặc khai thác thương mại trái phép trong vài giây. Vì thế, dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ lần này không chỉ là sửa kỹ thuật pháp lý, mà là tạo tấm lá chắn văn hóa số, bảo vệ người sáng tạo, và khẳng định chủ quyền văn hóa Việt Nam trong không gian mạng toàn cầu.
Theo đại biểu, trong dự thảo, việc sửa khoản 13 Điều 4 để mở rộng bảo hộ kiểu dáng công nghiệp sang “sản phẩm phi vật lý”, là đúng hướng. Tuy nhiên, trong môi trường số, sản phẩm phi vật lý không chỉ là mô hình, thiết kế 3D mà còn bao gồm hình ảnh số, giọng nói số, phong cách biểu diễn, avatar và nhân dạng số của nghệ sĩ.
Đại biểu bổ sung giải thích vào khoản này, nhằm bảo đảm không để giọng nói, hình ảnh nghệ sĩ, hay phong cách sáng tạo bị AI sao chép, deepfake và sử dụng mà không xin phép.
Tại khoản 2 Điều 7, dự thảo quy định việc thực hiện quyền SHTT không được cản trở sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca. Quy định này rất quan trọng sau sự việc Quốc ca Việt Nam bị chặn trên nền tảng số thời gian qua. Đại biểu cho rằng, cần bổ sung: “bao gồm cả môi trường trực tuyến và nền tảng số”, đồng thời làm rõ trách nhiệm không chỉ của cá nhân, tổ chức mà của nền tảng cung cấp dịch vụ số. Đây là bảo vệ biểu tượng thiêng liêng của quốc gia trong thời đại algorithM và AI quản trị nội dung.
Về giám định SHTT, dự thảo sửa đổi Điều 201 quy định mở rộng đối tượng giám định. Trong thời đại nội dung bị đạo nhạc, cải biên, tái tạo bằng AI rất nhanh, giám định phải dựa trên năng lực công nghệ. Vì vậy, đại biểu Bùi Hoài Sơn đề nghị bổ sung vào điều này yêu cầu năng lực giám định số: công cụ nhận diện nội dung, phân tích AI, truy vết dữ liệu, xác định nguồn gốc tác phẩm. Nếu không, luật cho phép giám định, nhưng thực tiễn không thể xử lý tranh chấp bản quyền số.
Tại quy định về hủy bỏ quyền phát sinh sau nếu xâm phạm quyền trước (Điều 7 bổ sung), dự thảo đã đưa Tòa án vào vai trò trọng tài quyết định. Tuy nhiên, đặc thù không gian mạng là tốc độ, nếu xử lý chậm, tác phẩm gốc sẽ mất thị phần, mất doanh thu. Vì vậy, đại biểu Bùi Hoài Sơn đề nghị bổ sung cơ chế giải quyết khẩn cấp đối với tranh chấp nội dung số, và khuyến khích áp dụng công nghệ gắn nhãn nguồn gốc (content-ID, watermark, blockchain xác thực).
Theo đại biểu, Dự thảo đã có tinh thần tích cực ở Điều 8a về tài chính dựa trên SHTT. Đây là chìa khóa phát triển công nghiệp văn hóa. Để khả thi, đại biểu cho rằng, cần quy định giao Chính phủ ban hành khung định giá tài sản trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa và cơ chế để bản quyền âm nhạc, phim, thiết kế, game có thể làm tài sản thế chấp. Khi ấy, nghệ sĩ Việt Nam không chỉ sáng tạo bằng cảm xúc, mà còn có thể gọi vốn bằng trí tuệ, đưa văn hóa trở thành ngành kinh tế thực sự.
Điểm quan trọng nhất đại biểu Bùi Hoài Sơn đề nghị bổ sung là nguyên tắc trách nhiệm của nền tảng AI và nền tảng số xuyên biên giới. Hiện dự thảo chưa thể hiện rõ. Đề nghị chèn thêm một khoản, theo đó nền tảng phải: Gỡ nhanh nội dung vi phạm; ngăn chặn tái đăng tải; minh bạch dữ liệu dùng để huấn luyện AI; không thương mại hóa nội dung AI tạo ra nếu dựa trên tác phẩm chưa được cấp phép. Đây không chỉ là kỹ thuật pháp lý mà là bảo vệ nền tảng văn hóa Việt, bảo vệ nghệ sĩ Việt và niềm tin của thế hệ sáng tạo trẻ.
"Chúng ta không thể để nghệ sĩ Việt trở thành người cung cấp dữ liệu miễn phí cho AI nước ngoài; không thể để giá trị văn hóa bị hút đi như tài nguyên thô; và cũng không thể để pháp luật theo sau công nghệ. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi phải là luật dẫn đường, mở không gian sáng tạo mới, nuôi dưỡng tài năng, thúc đẩy kinh tế sáng tạo và bảo vệ giá trị Việt trong dòng chảy số"- đại biểu Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh.
Đại biểu nhất trí với dự thảo và đề nghị Ban soạn thảo tiếp thu những nội dung bổ sung trên, để Luật Sở hữu trí tuệ thực sự trở thành khung pháp lý cho một Việt Nam sáng tạo - tự chủ - giàu bản sắc trong kỷ nguyên AI.










